Xây dựng pháp luật
Sign In
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ luật Dân sự năm 2005

(10/11/2014)

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định tại Mục 5 Chương XVII Phần thứ ba (từ Điều 318 đến Điều 373) của Bộ luật Dân sự năm 2005. Trên cơ sở đó, một số văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết cũng đã được ban hành (ví dụ: Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm; Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm; Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm...), qua đó góp phần hạn chế tranh chấp, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, đồng thời thúc đẩy sự luân chuyển an toàn của nguồn vốn trong xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện pháp luật cho thấy, một số quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã bộc lộ những hạn chế, chưa theo kịp được mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Chế định tài sản phá sản trong pháp luật một số quốc gia trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam

(29/10/2014)

Luật Phá sản ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển đều đưa ra khái niệm tài sản phá sản nhằm xác định khối tài sản của con nợ đang bị giải quyết phá sản, song cách thức xác định lại có nhiều điểm khác biệt.

Chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự nhìn từ thực tiễn xét xử

(28/10/2014)

Quyền dân sự hợp pháp của chủ thể trong quan hệ giao dịch dân sự là quyền được pháp luật bảo vệ, trong đó bao gồm cả quyền nhân thân và quyền tài sản. Khi xác lập giao dịch dân sự, đa số các chủ thể đều muốn tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ do các bên đã thỏa thuận, nhưng trong thực tế, không ít trường hợp, vì những lý do khác nhau mà các chủ thể không thể tự mình thực hiện được quyền, nghĩa vụ của mình trong quan hệ đã thiết lập bởi chủ thể không còn “tồn tại”. Khi đó, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS) một số quan hệ sẽ đương nhiên chấm dứt  và nhất là các quan hệ về nhân thân, mặc nhiên sẽ chấm dứt. Ngoài ra, luật cũng quy định một số trường hợp khi các bên chủ thể mặc dù không còn tồn tại nhưng một số quan hệ do chủ thể đó thiết lập vẫn tiếp tục được duy trì và những người kế thừa sẽ tiếp tục thực hiện. Điều 636 BLDS có quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”, đối với các chủ thể quyền thì quyền đó được chuyển giao và bên nhận chuyển giao được gọi là bên thế quyền.

Một số lưu ý khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu

(28/10/2014)

Trong những năm gần đây, các tranh chấp về nhà ở (tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở; về việc cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ; về trao đổi, tặng cho, thừa kế nhà ở…) không chỉ có xu hướng tăng về số lượng mà tính chất vụ việc cũng phức tạp hơn. Điều đó, khiến cho việc giải quyết các tranh chấp dạng này thường kéo dài nhiều năm, không chỉ gây tốn kém về thời gian, tiền bạc, mà còn gây bức xúc trong nhân dân. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do các quy định pháp luật chưa rõ ràng, thậm chí mâu thuẫn, chồng chéo, dẫn đến không chỉ khiến các vụ án bị tồn đọng nhiều, mà số lượng các bản án bị hủy, giao giải quyết lại cũng nhiều hơn. Từ thực trạng trên, thì việc nâng cao kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến nhà, đất đối với các thẩm phán là vấn đề rất quan trọng.

Mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh tại Pháp

(28/10/2014)

Lịch sử xây dựng và phát triển Luật Cạnh tranh trên thế giới đã cho thấy một thực tế là: Cơ quan quản lý cạnh tranh có vai trò quyết định trong việc bảo đảm thực thi Luật Cạnh tranh. Mỗi quốc gia tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mình mà có cách xây dựng mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh khác nhau, song đều có chung mục đích là góp phần thực thi Luật Cạnh tranh một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy, việc cơ quan này được tổ chức và hoạt động như thế nào là một vấn đề hết sức quan trọng, cần thiết phải được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một cách khái quát, chung nhất về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh của Pháp nhằm cung cấp thêm thông tin tham khảo trong việc hoàn thiện cơ quan quản lý cạnh tranh ở Việt Nam.

Quy định của Hiến pháp và pháp luật về bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán

(28/10/2014)

Không phải cho tới thời kỳ đương đại, chúng ta mới bàn về nguyên tắc “Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, mà trong lịch sử, nguyên tắc này đã được đề cập tại Bộ luật Hồng Đức. Điều 672 Bộ luật này quy định: “Các quan kể trên phải xét xử cho công bằng và đúng pháp luật”. Điều 720 cũng qui định: “Không ai được cố chấp ý riêng mình, bắt mọi người phải tuân theo”. Tuy nhiên, đấy chỉ mới là những manh nha của nguyên tắc xét xử độc lập. Tính độc lập của Thẩm phán chính là sự gắn kết tuyệt đối các Thẩm phán với luật pháp. Tính độc lập của Thẩm phán sẽ bảo vệ quyền lực tư pháp trước sự can thiệp từ phía lập pháp, hành pháp cũng như các tổ chức khác trong xã hội. Montesquieu cho rằng, quyền lực nào cũng bị đe dọa lạm dụng, như vậy, người nào cũng có xu thế lạm dụng quyền lực mình đang có trong tay, cho tới khi chạm phải rào cản. Với quyền lực tư pháp, Montesquieu chủ trương khi xét xử Thẩm phán không cần nhận chỉ thị từ đâu, mà chỉ tuân thủ luật pháp. Khi giải thích, áp dụng các chuẩn mực, Thẩm phán không cần phải theo ý kiến đa số và cần hành động dựa vào pháp luật và niềm tin nội tâm. Đề cao tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Xirêon - một luật sư và là nhà hùng biện nổi tiếng La mã cổ đại đã từng nói: “Quan toà là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan toà câm”.
Về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, hoạt động của bộ máy nhà nước sẽ mất đi những giá trị xã hội to lớn của nó nếu tính độc lập của Thẩm phán không được đảm bảo. Sự vi phạm nguyên tắc này dẫn đến sự lạm dụng quyền lực, sư thoái hóa của quyền lực và xã hội dĩ nhiên sẽ gánh chịu những hậu quả to lớn của tình trạng này.

Vai trò của hòa giải trong giải quyết xung đột xã hội

(22/10/2014)

Xung đột xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất của các mâu thuẫn trong hệ thống các quan hệ giữa con người với con người với tính cách là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, thể hiện ở sự đối lập các lợi ích và quan điểm, được biểu hiện bằng các hành vi hữu hình trái ngược nhau trên thực tế như tranh chấp, xích mích, bất đồng, vi phạm pháp luật, tức là các xung đột xã hội diễn ra chủ yếu giữa các cá nhân, tổ chức trong đời sống.

Kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng Hình sự nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và quyền của bị can, bị cáo

(22/10/2014)

Trong tố tụng hình sự, bị can, bị cáo được xác định là những người tham gia tố tụng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 và khoản 1 Điều 50 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) thì “bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”, “bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Hiện nay, với nguyên tắc coi bị can, bị cáo là những người chưa có tội nên pháp luật tố tụng hình sự đã dành cho họ nhiều quyền trong suốt các giai đoạn tố tụng. Bị can hay bị cáo chỉ là các tên gọi khác nhau của cùng một người khi ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Do vậy, ngoài những quyền riêng có của từng đối tượng thì họ đều có chung các quyền khi ở các giai đoạn khác nhau. Trong thời gian qua, các cơ quan và những người tiến hành tố tụng đã thận trọng, vô tư và đề cao tinh thần trách nhiệm thực hiện tương đối tốt trách nhiệm của mình để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay về quyền của bị can, bị cáo còn chưa hoàn thiện và chặt chẽ. Việc đảm bảo các quyền này trong thực tế hoạt động tố tụng có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất. Để khắc phục những tồn tại này, cần có nhiều biện pháp đồng bộ trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền của bị can, bị cáo và cơ chế để thực hiện nó.

Mô hình thể chế hòa giải một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam

(22/10/2014)

Ở Việt Nam, từ lâu, hòa giải đã trở thành một truyền thống tốt đẹp trong văn hóa, đạo lý của dân tộc. Hòa giải là một quy trình giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật có sự tham gia của bên thứ ba với vai trò trung gian, giúp đỡ, thúc đẩy các bên có mâu thuẫn, tranh chấp hoặc bên vi phạm pháp luật và nạn nhân của vi phạm đạt được sự thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Chính vì tầm quan trọng và ý nghĩa của hòa giải như vậy, mà Đảng và Nhà nước ta trong hơn nửa thế kỷ qua đã luôn quan tâm đến công tác hòa giải và coi đó là một trong những chủ trương có tính chiến lược lâu dài góp phần củng cố trật tự xã hội.

Pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam

(22/10/2014)

Pháp luật về giáo dục đại học là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động giáo dục đại học, bao gồm các quy định về tổ chức cơ sở giáo dục đại học; nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí của giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân; các trình độ đào tạo, loại hình đào tạo và quy mô đào tạo của giáo dục đại học; đầu tư cho giáo dục đại học, hợp tác quốc tế về giáo dục đại học...