Xây dựng pháp luật
Sign In
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

(26/07/2016)

Thi hành án dân sự là một hoạt động quan trọng của Nhà nước nhằm đưa bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, trọng tài, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý cạnh tranh ra thi hành nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định một nguyên tắc: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Nhận thức được vị trí pháp lý và tầm quan trọng của hoạt động thi hành án dân sự trong thực tiễn đời sống xã hội, trong thời gian qua, hoạt động quản lý nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều hiệu quả. Bài viết đã nêu lên được những thành tưu trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, cụ thể: Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật quản lý lĩnh vực thi hành án dân sự; xây dựng bộ máy quản lý và đội ngũ công chức các cơ quan thi hành án; hoạt động thanh tra, kiểm tra; tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn nghiệp vụ; giải quyết khiếu nại, tố cáo. Qua đó, bài viết chỉ ra được những vấn đề đang tồn tại, nguyên nhân chủ yếu và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

Chấm dứt pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015

(26/07/2016)

Pháp nhân là tổ chức được thành lập một cách hợp pháp, theo cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Ngoài ra, pháp nhân còn nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ pháp luật độc lập. Pháp nhân là chủ thể của nhiều ngành luật trong đó có luật dân sự. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành không có định nghĩa về pháp nhân, mà chỉ đưa ra các điều kiện để công nhận pháp nhân. Về cơ bản, Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005 và năm 2015 đều không có sự khác biệt lớn về điều kiện công nhận pháp nhân. Chấm dứt pháp nhân là việc chấm dứt sự tồn tại của một tổ chức với tư cách là một chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật mà trước đó tổ chức đó tham gia với tư cách pháp nhân. Bài viết đã chỉ ra được những trường hợp chấm dứt pháp nhân theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 và những vấn đề cần phải làm rõ với hai trường hợp: (i) Đối với trường hợp chuyển đổi hình thức pháp nhân; (ii) Đối với trường hợp chia pháp nhân.

Bảo đảm quyền trẻ em thông qua hoạt động xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật ở Việt Nam

(26/07/2016)

Trong xã hội, trẻ em là một trong những đối tượng yếu thế nhất nên phải được quan tâm đầu tư để bảo đảm sự bình đẳng. Hơn nữa, trẻ em là tương lai của đất nước, của dân tộc nên việc đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho tương lai. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em. Từ đó đến nay, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công ước vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và luật pháp quốc gia, như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Phổ cập giáo dục, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự... được ban hành hay sửa đổi đều quan tâm thích đáng đến quyền lợi của trẻ em. Bài viết này đề cập đến một số thành tựu về bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thông qua hoạt động xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật ở Việt Nam; đồng thời, phân tích những hạn chế và đưa ra các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền trẻ em thông qua hoạt động xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về quyền của trẻ em.

Sự cần thiết phải bảo vệ người sử dụng lao động trong chế định hợp đồng lao động

(26/07/2016)

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động là đảm bảo các quyền và lợi ích mà pháp luật đã quy định cho người sử dụng lao động được thực hiện, không bị các chủ thể khác xâm hại. Pháp luật lao động cũng đã ghi nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động trong nhiều chế định và bảo vệ họ ở mức độ cần thiết. Về nội dung, quyền và lợi ích của người sử dụng lao động cũng được đảm bảo trên nhiều lĩnh vực nhưng nhất thiết phải trong khuôn khổ luật định. Khuôn khổ đó đảm bảo cho người sử dụng lao động đạt được mục đích chính đáng của mình ở mức tối đa nhưng không làm phương hại đến người lao động và các chủ thể khác, đến đời sống xã hội và lợi ích chung. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động cũng là cách giải quyết vấn đề lợi ích hợp lý trong xã hội, yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Thông qua việc bảo vệ này mà quan hệ lao động có thể phát triển bền vững, người lao động cũng có điều kiện ổn định việc làm, đảm bảo cuộc sống. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến sự cần thiết phải bảo vệ người sử dụng lao động ở khía cạnh chế định hợp đồng lao động, hay nói cách khác, đó là sự thể hiện của nguyên tắc bảo vệ người sử dụng lao động trong các quy định về hợp đồng lao động thông qua việc phân tích chế định hợp đồng lao động trong hệ thống pháp luật lao động; vai trò quan trọng của người sử dụng lao động trong nền kinh tế; quyền tự do kinh doanh của người sử dụng lao động; địa vị pháp lý của người sử dụng lao động và người lao động khi giao kết hợp đồng lao động…

Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự

(26/07/2016)

Trong giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình được hiểu là người chiếm hữu không có căn cứ pháp lý đối với tài sản nhưng không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng không đưa ra định nghĩa chung về sự “ngay tình” trong giao dịch, nhưng có thể hiểu, sự ngay tình chính là việc người thứ ba căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký nên mới tin rằng, người chuyển giao tài sản cho mình là người sử dụng hay chủ sở hữu hợp pháp của tài sản và do đó mới xác lập, thực hiện giao dịch. Qua bài viết, tác giả đã giới thiệu cho bạn đọc thực tiễn quy định và bảo vệ quyền của người thứ ba ngay tình Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015, tác giả cũng có những so sánh, đánh giá để bạn đọc nắm được điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 về việc bảo về quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự đồng thời cũng dự liệu những tình huống có thể gặp phải khi áp dụng các quy định của pháp luật trong tương lai.

Kiểm soát việc thực hiện pháp luật đất đai của chính quyền địa phương ở Việt Nam

(26/07/2016)

Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước sẽ trao quyền sử dụng đất cho người dân. Nhà nước ta đã ban hành hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ và toàn diện để quản lý đất đai thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh hệ thống pháp luật đầy đủ, chặt chẽ, một đội ngũ cán bộ công chức đủ năng lực, trình độ... việc kiểm soát thực hiện pháp luật đất đai là một trong những yếu tố quan trọng để việc quản lý đất đai được thống nhất, đúng pháp luật. Hiện nay, chính quyền đại phương được trao quyền đại diện chủ sở hữu, quản lý đất đai ở địa phương. Việc kiểm soát thực hiện pháp luật đất đai của chính quyền địa phương đang là vấn đề được Nhà nước ta quan tâm, là một trong những biện pháp quan trọng để Nhà nước, người dân giám sát việc thực thi pháp luật về đất đai của cơ quan nhà nước ở địa phương. Qua bài viết, tác giả khái quát mục đích, thực trạng, đồng thời chỉ rõ những hạn chế trong kiểm soát việc thực hiện pháp luật đất đai của chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay.

Pháp luật về hỗ trợ ổn định đời sống khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

(21/07/2016)

Hỗ trợ ổn định đời sống là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách hỗ trợ của Nhà nước khi thu hồi đất nông nghiệp. Trên cơ sở nghiên cứu tổng hợp, phân tích các quy định về hỗ trợ của Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố và các quy định pháp luật do Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành, bài viết đánh giá các nội dung có liên quan, đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần ổn định đời sống của người bị thu hồi đất nông nghiệp.

Một số điểm cần lưu ý trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

(21/07/2016)

Ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có những điểm mới so với các quy định về tố tụng dân sự trước đây, trong đó có nhiều quy định thể hiện việc tiếp thu kinh nghiệm của các nước và tinh thần hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác có phải là biện pháp bảo lãnh?

(29/06/2016)

“Thế chấp” và “Bảo lãnh” là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định tại Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2005. Thời gian qua, trong các giao dịch “thế chấp quyền sử dụng đất” để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được xem như là biện pháp “bảo lãnh” cho người thứ ba vay vốn trong hoạt động cấp tín dụng, điều này không phù hợp với quy định của Luật Đất đai năm 2013. Do đó, đã gây không ít khó khăn cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín , dụng để đầu tư sản xuất, kinh doanh. Vậy thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác có phải là biện pháp bảo lãnh? Bài viết đã luận giải cho độc giả một số khía cạnh lý luận - pháp lý về biện pháp bảo lãnh và thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác, cụ thể: Nhận diện bảo lãnh và thế chấp tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác từ góc nhìn pháp luật thực định; Tiếp cận của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bảo lãnh và thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác; từ thực tiễn pháp lý trên tác giả đưa ra các đề xuất, kiến nghị để các hợp đồng thế chấp được ký dưới hình thức thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác cần được thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện.

Pháp nhân và quyền con người trong pháp luật dân sự

(29/06/2016)

Với mục đích đơn giản hóa và ổn định đời sống pháp lý, tư cách pháp nhân trao cho các tổ chức khả năng trở thành một chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật. Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành, việc quy định tư cách pháp nhân cho doanh nghiệp góp phần đảm bảo cho tính ổn định của nền kinh tế, đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là, pháp nhân có được công nhận là chủ thể có quyền tiếp nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân hay không? Hay nói cách khác, việc ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân tại chương II Hiến pháp năm 2013 có áp dụng đối với pháp nhân trong nước hay không vẫn là một câu hỏi trong pháp luật Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả trình bày khái quát những vấn đề còn tồn tại trong Hiến pháp, pháp luật về dân sự liên quan đến pháp nhân và quyền con người; bên cạnh đó, phân tích xoay quanh vấn đề hoạt động của pháp nhân bị giới hạn trong phạm vi mục đích của pháp nhân bằng cách đưa ra các học thuyết về đối tượng bị hạn chế và nêu lên phạm vi mục đích của pháp nhân; ngoài ra, một số vấn đề như: Bảo vệ danh dự, uy tín của pháp nhân… cũng được tác giả đề cập trong bài viết.