Xây dựng pháp luật
Sign In
Hợp đồng hợp tác theo Bộ luật Dân sự năm 2015

(19/12/2016)

Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10 khóa XIII, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 với những điểm mới được ghi nhận. Trong đó, chế định về hợp đồng có những đổi mới căn bản. Bộ luật dân sự năm 2015 chỉ quy định về một số hợp đồng mang tính đặc trưng và đại diện cho quan hệ pháp luật dân sự. So với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng bảo hiểm. Những hợp đồng này đã được quy định trong Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bảo hiểm. Bên cạnh đó, Bộ luật cũng bổ sung một loại hợp đồng mới là “Hợp đồng hợp tác” để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về hợp tác trong sản xuất, kinh doanh. Theo đó, hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản. Bên cạnh đó, Bộ luật cũng quy định những vấn đề liên quan đến nội dung của hợp đồng hợp tác; quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự của thành viên hợp tác; việc rút khỏi, gia nhập hợp đồng hợp tác; chấm dứt hợp đồng hợp tác. Trước đó, loại hợp đồng này được quy định trong Luật Đầu tư 2014 nhưng chỉ dừng lại ở định nghĩa về hợp đồng hợp tác. Bài viết này nêu khái quát về hợp đồng hợp tác, những nội dung của hợp đồng hợp tác theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của việc hợp tác trong hợp đồng hợp tác… giúp các chủ thể trong giao lưu dân sự giảm thiểu tối đa những rủi ro có thể xảy ra và bảo đảm quyền, lợi ích thiết thân cho mình.

Các nguyên tắc cơ bản trong giáo dục quyền con người cho học sinh phổ thông ở Việt Nam.

(19/12/2016)

Hiện nay, giáo dục quyền con người đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Nhiều tổ chức quốc tế đã có những chương trình hành động lớn và rộng khắp trên thế giới về vấn đề này. Ở phạm vi quốc gia, giáo dục quyền con người cũng đã trở thành một phần trong chương trình giáo dục của nhiều nước, tuy có sự khác nhau về phạm vi, mức độ và cách thức tổ chức hoạt động. Trên thực tế, giáo dục quyền con người, xét ở góc độ nhất định, từ lâu đã được thực hiện trong hệ thống giáo dục của Việt Nam, dưới hình thức giáo dục đạo đức công dân. Kể từ khi đổi mới đến nay, hoạt động giáo dục quyền con người đã được tăng cường thêm một bước, xét cả về nội dung và phạm vi tổ chức. Mặc dù quyền con người không phải là một phạm trù dễ hiểu nhưng việc giáo dục quyền con người với mức độ nhất định và bằng các phương pháp phù hợp trong các nhà trường phổ thông là cần thiết và có thể thực hiện được. Thực tế trên thế giới đã chứng minh tính hữu ích và hiệu quả của việc hình thành nhận thức và thái độ tôn trọng quyền con người của các cá nhân ngay từ khi còn trẻ thông qua việc triển khai giáo dục nhân quyền cho học sinh phổ thông. Bài viết này tập trung phân tích vai trò của giáo dục quyền con người cho học sinh phổ thông và những nguyên tắc cơ bản của hoạt động giáo dục quyền con người cho học sinh phổ thông… tạo tiền đề quan trọng cho việc thúc đẩy hoạt động giáo dục nhân quyền ở Việt Nam trong thời gian tới

Lý lịch tư pháp và vấn đề xóa án tích

(19/12/2016)

Bộ luật Hình sự năm 1995 quy định người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và được Tòa án cấp giấy chứng nhận. Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều quy định mới về vấn đề xóa án tích, bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, giao trách nhiệm cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định. Bài viết đã giới thiệu với bạn đọc những quy định của pháp luật về vấn đề xóa án tích, quy định của pháp luật về lý lịch tư pháp liên quan đến vấn đề xóa án tích, một số khó khăn và những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lý lịch tư pháp.

Quan niệm về quyền tư pháp trong khoa học pháp lý

(19/12/2016)

Hiến pháp năm 2013 quy định quyền lực Nhà nước ta là thống nhất, có sự phân công, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Hiện nay, trong khoa học pháp lý có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về quyền tư pháp. Qua bài viết, tác giả đã giới thiệu với bạn đọc hai nhóm quan điểm tiếp cận về quyền tư pháp, quan điểm về quyền tư pháp trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và quan điểm về thực hiện quyền tư pháp.

Sự cần thiết phải bổ sung phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong dự thảo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi)

(19/12/2016)

Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có thể hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được hiểu là phạm vi các lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Ví dụ, Nhà nước chỉ chấp nhận bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án mà không bồi thường đối với thiệt hại gây ra trong hoạt động lập pháp. Dưới góc độ tính chất của hoạt động công vụ, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được hiểu là phạm vi các hoạt động thuộc chức năng công quyền. Ví dụ, Nhà nước chỉ bồi thường đối với thiệt hại gây ra bởi các hoạt động thuộc chức năng công quyền mà không bồi thường đối với thiệt hại gây ra bởi các hoạt động phi công quyền. Dưới góc độ thiệt hại được bồi thường, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có thể được hiểu là những thiệt hại nào sẽ được Nhà nước bồi thường, những thiệt hại nào thì Nhà nước không có trách nhiệm bồi thường. Ví dụ, Nhà nước chỉ bồi thường đối với các thiệt hại về vật chất (thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết, thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khỏe) và thiệt hại về tinh thần. Dưới góc độ ý thức chủ quan của người thi hành công vụ khi gây ra thiệt hại, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được hiểu là phạm vi các trường hợp mà Nhà nước bồi thường được xác định trên cơ sở xác định lỗi của người thi hành công vụ. Ví dụ, nhà nước chỉ chấp nhận bồi thường đối với những thiệt hại gây ra trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi. Dưới góc độ giới hạn hay không giới hạn các trường hợp được bồi thường trong từng lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có thể được hiểu là giới hạn các trường hợp được bồi thường trong từng lĩnh vực cụ thể. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ đề cập đến phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước dưới góc độ các lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường, theo đó Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại gây ra bởi hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án.

Mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Nghiên cứu so sánh Việt Nam và Hàn Quốc

(12/12/2016)

Quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ nền tảng và quan trọng nhất trong các mối quan hệ xã hội. Bởi đó là mối quan hệ đầu tiên, gần gũi nhất của mỗi con người và là cơ sở để xã hội hình thành và phát triển. Thông qua hôn nhân và gia đình, con người thực hiện các chức năng duy trì nòi giống, giáo dục và hình thành nhân cách. Do đó, việc phát triển các mối quan hệ hôn nhân và gia đình luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở mỗi quốc gia.

Hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng tài sản vô hình ở Việt Nam

(30/11/2016)

Vốn là một yếu tố không thể thiếu trong kinh doanh, thương mại. Vốn có thể được dùng để duy trì việc sản xuất, kinh doanh, hoặc mở rộng quy mô, cải tiến công cụ lao động, tư liệu sản xuất, và đầu tư phát triển khoa học, công nghệ để áp dụng trong thực tiễn. Vốn là tiền đề để tạo ra lợi nhuận, và lợi nhuận chính là mục đích của việc kinh doanh. Ngày nay, trong điều kiện khoa học công nghệ thay đổi từng giờ, khái niệm tài sản góp vốn giờ đây không chỉ tập trung vào các tài sản hữu hình mà còn phát sinh ra vấn đề góp vốn là tài sản vô hình (đôi khi, tài sản vô hình có giá trị rất lớn). Đây là một vấn đề được quan tâm bởi tính chất đặc biệt của đối tượng dùng làm tài sản góp vốn. Luật Doanh nghiệp năm 2014 mới đây đã có những thành công nhất định trong việc quy định chi tiết hơn về góp vốn bằng tài sản vô hình so với Luật Doanh nghiệp năm 2005. Tuy nhiên vẫn còn nhiều điều cần bàn xung quanh vấn đề góp vốn bằng tài sản vô hình. Trong bài viết này, tác giả phản ánh thực trạng pháp luật về góp vốn bằng tài sản vô hình và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.

Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam

(22/11/2016)

Bình đẳng giới hiện nay đang trở thành vấn đề toàn cầu và được mọi quốc gia trên thế giới quan tâm. Thực hiện bình đẳng giới trên thực tế là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp không chỉ riêng một lĩnh vực nào mà nó đi liền với nhiều bức xúc của xã hội. Hiện nay, ở nước ta, phụ nữ chiếm phân nửa dân số cả nước, đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay đã trở thành một chế định quan trọng và là nguyên tắc Hiến định trong hệ thống pháp luật, là cơ sở để thể chế hóa trong văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới cũng không nằm ngoài quy luật chung, nó không chỉ là nhu cầu xuất phát từ chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, từ yêu cầu khách quan mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu của phụ nữ, của nhân dân, của xã hội và đáp ứng những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết,tham gia. Trong bài viết này, tác giả tập trung quán triệt một số quan điểm trong quá trình hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam theo hướng áp dụng các chế tài pháp luật nói chung và chế tài pháp luật bình đẳng giới nói riêng đa dạng hơn, nghiêm khắc hơn nhằm bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể nói chung và phụ nữ nói riêng ở nước ta hiện nay.

Hoàn thiện pháp luật về xác lập, điều chỉnh địa giới hành chính dưới cấp tỉnh

(22/11/2016)

Địa giới hành chính được quy định tại Điều 29 Luật Đất đai năm 2013. Theo đó, Chính phủ chỉ đạo việc xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính các cấp trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định về trình tự, thủ tục xác định địa giới hành chính, quản lý mốc địa giới và hồ sơ địa giới hành chính các cấp. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật trong việc cắm mốc địa giới hành chính, lập hồ sơ địa giới hành chính các cấp. Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức thực hiện việc xác định địa giới hành chính trên thực địa và lập hồ sơ về địa giới hành chính trong phạm vi địa phương. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm quản lý mốc địa giới hành chính trên thực địa tại địa phương; trường hợp mốc địa giới hành chính bị mất, xê dịch hoặc hư hỏng phải kịp thời báo cáo Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện). Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện trên thực tiễn cho thấy pháp luật về xác lập, điều chỉnh địa giới hành chính dưới cấp tỉnh cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Bài viết đã chỉ ra thực trạng và đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật về thành lập mới, chia tách, sáp nhập, giải thể, điều chỉnh địa giới hành chính các cấp chính quyền địa phương.