Xây dựng pháp luật
Sign In
Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo luật Hình sự Việt Nam

(27/09/2016)

Mặc dù tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có đã được quy định khá chi tiết tại Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999 (Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015), song do tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, nên trong thực tiễn một số quy định của tội này đã được vận dụng và có cách hiểu khác nhau. Bài viết đã tập trung nghiên cứu quy định của luật hình sự về tội phạm này và những quy định khác trong luật hình sự, góp phần giải đáp những vướng mắc mà thực tiễn xét xử đặt ra về: (i) Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản do người khác phạm tội mà có (ii) Dấu hiệu lỗi của người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; (iii) Hành vi khách quan của tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; đồng thời, kiến nghị sửa Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Bàn về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam

(27/09/2016)

Miễn trách nhiệm hình sự là chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam. Bản chất pháp lý của chế định này là hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm khi có các căn cứ do pháp luật hình sự quy định, tức là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của Nhà nước căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Thực hiện những quy định này nhằm tiết kiệm việc áp dụng chế tài của luật hình sự nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Áp dụng đúng chế định này có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đáp ứng mục tiêu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bài viết này sẽ bàn về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự Việt Nam với những nội dung như: Khái niệm, bản chất pháp lý của miễn trách nhiệm hình sự, nội dung trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự, vấn đề đặt ra khi áp dụng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự.

Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự

(27/09/2016)

Loại trừ trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Chế định này được đánh dấu ra đời bằng những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự vào năm 1983. Trong lần pháp điển hóa pháp luật hình sự đầu tiên (Bộ luật Hình sự năm 1985) đã có 04 trường hợp được coi là loại trừ trách nhiệm hình sự. Các trường hợp này tiếp tục được ghi nhận tại Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Đến Bộ luật Hình sự năm 2015, chế định này đã hoàn thiện hơn, được ghi nhận trong một chương riêng gồm 07 điều. Bài viết này sẽ đưa ra cái nhìn tổng thể về loại trừ trách nhiệm hình sự, chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Đặc biệt là một số vấn đề như: Thế nào là loại trừ trách nhiệm hình sự; đặc điểm cơ bản; ý nghĩa khoa học, thực tiễn của việc nghiên cứu; những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự năm 2015; một số điểm tiến bộ và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

Yêu cầu pháp lý của trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật liên minh châu Âu - Bài học cho Việt Nam

(27/09/2016)

Trách nhiệm sản phẩm là trách nhiệm của nhà sản xuất hay người bán mà sản phẩm khuyết tật của họ gây ra thiệt hại cho người sử dụng, người mua hay bên thứ ba có liên quan. Yêu cầu pháp lý cho trách nhiệm sản phẩm không còn là điều mới mẻ trong pháp luật châu Âu, ở châu Âu đã hình thành khung pháp lý cho vấn đề này vào những năm 80 nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, với pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này còn khá nhiều bất cập trong nghĩa vụ chứng minh. Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có một chế định riêng về trách nhiệm sản phẩm, nhưng có rất nhiều văn bản quy định có liên quan đến vấn đề này, như: Bộ luật Dân sự, Luật Quản lý chất lượng hàng hoá và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là văn bản quy định trực tiếp cơ chế bảo vệ quyền lợi người bị thiệt hại do sản phẩm khuyết tật gây ra. Bài viết đã đề cập: Khái quát pháp luật châu Âu và Việt Nam về yêu cầu pháp lý của trách nhiệm sản phẩm, chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm; một số quy định tiến bộ trong khung pháp lý cho trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật liên minh châu Âu mà Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm trong quá trình xây dựng hệ thống luật và áp dụng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này.

Bản chất của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo pháp luật hiện hành

(27/09/2016)

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự Việt Nam qua các thời kỳ. Tuy nhiên, do chuyển nhượng quyền sử dụng đất liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nên xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau xung quanh bản chất của chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Bài viết dưới đây, tác giả đã khái quát các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng sử dụng đất, đồng thời phân tích một nội dung mới mà Bộ luật Dân sự năm 2015 mới ghi nhận, đó là quyền bề mặt. Trên cơ sở đó, tác giả phân định rõ giữa quyền bề mặt và quyền sử dụng đất. Đây là hai loại quyền không thể đồng nghĩa với nhau và có quy chế điều chỉnh khác nhau.

Một số ý kiến về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

(27/09/2016)

Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân, là việc cần thiết cho cả vợ, chồng khi quan hệ hôn nhân không thể hàn gắn. Nó giải quyết được xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống. Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân được Tòa án công nhận hoặc ra quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng. Chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn trừ một số trường hợp khác như một trong hai bên tâm thần hoặc không thể nhận thức được hay là nạn nhân của nạn bạo hành gia đình thì cha, mẹ hoặc người thân thích có quyền yêu cầu Tòa án cho ly hôn. Tuy nhiên, Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hôn của vợ, chồng, không có nghĩa là Nhà nước tùy tiện cho ly hôn khi có yêu cầu. Pháp luật Việt Nam có kiểm soát ly hôn bằng việc đưa ra một số quy định hạn chế quyền ly hôn của người chồng. Qua nghiên cứu quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tác giả đặt ra những vấn đề cần giải quyết trong trường hợp người chồng bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi người vợ sinh con; vợ chồng lại có đơn yêu cầu thuận tình ly hôn; mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; đang nuôi con nuôi dưới 12 tháng tuổi…

Hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc Việt Nam - Thực tiễn và một số kiến nghị

(27/09/2016)

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách, pháp luật; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, các điển hình tiên tiến và những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, hoạt động động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trên thực tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần khắc phục để Mặt trận Tổ quốc thực hiện tốt hơn hoạt động giám sát của mình trên thực tiễn.

Hiến pháp - Cơ sở pháp lý cơ bản của việc bảo đảm quyền con người

(27/09/2016)

Hiện nay, quyền con người đã được cộng đồng quốc tế, các quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Ở nước ta, quyền con người được quan tâm từ rất sớm. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945. Tiếp theo đó, ở các thời kỳ khác nhau nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Điều này được khẳng định trong các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong hệ thống pháp luật, quyền con người được ghi nhận tại Hiến pháp, đạo luật gốc, đạo luật cao nhất của Nhà nước ta, đây là cơ sở pháp lý cơ bản của việc bảo đảm quyền con người.

Sự thể hiện của công lý trong đường lối lãnh đạo của Đảng và Hiến pháp năm 2013

(06/09/2016)

Công lý là kết tinh của những nỗ lực, cố gắng không ngừng của nhân loại để thực hiện lý tưởng công bằng, là giá trị nền tảng, cốt lõi trong việc tổ chức một xã hội trật tự, ổn định và hợp tác. Tại Việt Nam, mặc dù đã xuất hiện ngay từ những ngày đầu xây dựng Nhà nước cách mạng nhân dân, nhưng đến nay công lý trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn là một hệ giá trị còn khá mới mẻ, quan niệm, nhận thức về công lý còn chưa đầy đủ và thống nhất, lý luận về công lý trong đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản còn chưa phát triển, hoàn thiện, cùng với những bất cập từ chính sách pháp luật, thiết chế thực thi, nguồn lực bảo đảm…, nên đang tiềm ẩn những trở lực ảnh hưởng đến quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quá trình thực thi, thúc đẩy và bảo vệ các giá trị của công lý. Bài viết này sẽ tập trung làm rõ sự thể hiện của công lý trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp năm 2013, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả triển khai các quy định của Đảng, Nhà nước về công lý trong thời gian tới.