Xây dựng pháp luật
Sign In
Các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân

(22/01/2015)

Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật Dân sự năm 2005, cá nhân có quyền nhân thân đối với hình ảnh nói riêng và các quyền nhân thân nói chung khi bị xâm phạm thì có thể bảo vệ quyền nhân thân của mình theo các phương thức như tự mình bảo vệ; yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ hoặc buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.

Dự án Luật Ban hành quyết định hành chính - Mục tiêu và những định hướng cơ bản

(22/01/2015)

Ban hành quyết định hành chính (QĐHC) là một trong những phương thức hoạt động quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước. Khác với văn bản quy phạm pháp luật, QĐHC là văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh quyền lực công ban hành, mà tính chất của nó là sự cho phép, chấp thuận, cấm đoán... đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Nếu như ở góc độ vĩ mô, văn bản quy phạm pháp luật là loại văn bản có tính phổ biến, áp dụng chung trên diện rộng ở phạm vi toàn quốc, thì ở góc độ vi mô, QĐHC là loại văn bản xác lập trực tiếp quyền, lợi ích hợp pháp, trách nhiệm pháp lý cụ thể của từng cá nhân (hoặc từng nhóm cá nhân), tổ chức. Mặc dù phạm vi áp dụng của một QĐHC không rộng như phạm vi một văn bản quy phạm pháp luật, nhưng không thể xem nhẹ vai trò và tầm quan trọng của nó, bởi một mặt, với tính chất là một văn bản áp dụng pháp luật, QĐHC là thước đo trên thực tiễn tính khả thi của một văn bản quy phạm pháp luật; mặt khác, với tính chất là một văn bản cụ thể xác lập quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể, nó tác động trực tiếp đến đời sống của người dân, đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Một QĐHC, nếu được ban hành đúng thẩm quyền, theo một trình tự rõ ràng, minh bạch và nội dung của nó phù hợp với sự thật khách quan sẽ là minh chứng sống động cho sự hợp lý, tính hợp pháp, tính khả thi trong chính sách của Nhà nước và vì vậy sẽ được thực hiện một cách đồng thuận. Ngược lại, một QĐHC “bị” ban hành sai thẩm quyền, với một trình tự không được kiểm soát về tính minh bạch và nội dung của nó không phản ánh sự thật khách quan, không tính đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, sẽ là một rào cản trong quá trình đưa chính sách của Nhà nước vào thực tiễn, gây bức xúc cho cá nhân, doanh nghiệp, làm giảm lòng tin của công chúng vào hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước.

Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 đã được cụ thể hóa trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

(14/01/2015)

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã được kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 19/6/2014 và đã chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015, thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã kế thừa và phát huy các quy định hiện hành và pháp luật về hôn nhân gia đình qua các thời kỳ phát triển của đất nước; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình; những quy định mới của Luật đã bám sát và cụ thể hóa những nội dung cơ bản về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 , đó là: Tôn trọng và bảo đảm thực hiện quyền con người, bình đẳng giới, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi và những người yếu thế khác trong quan hệ hôn nhân và gia đình... Luật đã khắc phục được nhiều mặt hạn chế, đã tạo ra cơ chế pháp lý hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình vốn có nhiều đặt thù so với các quan hệ dân sự khác, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội và đất nước. So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ít hơn 04 chương, nhưng tăng thêm 23 điều (với 9 chương và 133 điều), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định những vấn đề mới như: Tăng độ tuổi kết hôn của nam và nữ; không cấm nhưng không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính; cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; quy định về chế độ tài sản của vợ chồng; quan hệ giữa vợ và chồng; chấm dứt hôn nhân; quan hệ giữa cha, mẹ và con; quan hệ giữa các thành viên khác của gia đình; chế độ cấp dưỡng...

Quyền bãi nhiệm đại biểu dân cử và sự phát triển các quy định về quyền bãi nhiệm đại biểu dân cử qua các bản Hiến pháp Việt Nam

(22/12/2014)

Đại biểu dân cử là những người do nhân dân trực tiếp bầu ra, vì thế Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của họ với tư cách là những người đại diện cho ý chí, lợi ích, nguyện vọng của cử tri; giám sát năng lực, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ đại biểu cũng như thực hiện các chức vụ được giao; giám sát phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của các đại biểu. Khi có các đại biểu không thể hiện được ý chí, lợi ích, nguyện vọng của cử tri, thiếu năng lực và trách nhiệm trong hoạt động đại biểu cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ chuyên môn được giao, có vi phạm về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống mà Nhân dân phát hiện ra, có ý kiến, thì phải có các thiết chế chính trị bảo đảm cho Nhân dân thực hiện quyền bãi nhiệm các đại biểu dân cử này một cách trực tiếp hay gián tiếp.

Về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật

(18/12/2014)

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang giúp Chính phủ tiến hành xây dựng dự Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới để thay thế cho hai luật hiện hành là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Điều khó có thể nghĩ đến là ngay trong nhiều nội dung được các nhà soạn luật xem xét lại là vấn đề rất cũ trong khoa học pháp lý là khái niệm văn bản quy phạm pháp luật (QPPL).

Bảo đảm thực hiện quyền được thông tin của công dân nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng

(18/12/2014)

Quyền tiếp cận thông tin là một quyền dân sự, chính trị quan trọng của công dân, có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Quyền tiếp cận thông tin góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, qua đó góp phần phòng, chống tham nhũng. Bảo đảm thực hiện quyền được thông tin tạo cơ sở cho việc giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Bên cạnh đó, bảo đảm thực hiện quyền được thông tin góp phần thực hiện đầy đủ các quyền dân sự, chính trị khác của công dân.

Bàn về thời hiệu khởi kiện theo pháp luật thương mại Việt Nam

(20/11/2014)

Ở Việt Nam, trong lĩnh vực thương mại, thời hiệu khởi kiện chỉ được quy định một khoảng thời hiệu duy nhất và chủ yếu áp dụng tiêu chuẩn khách quan để xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu. Tuy nhiên, nguyên tắc xác định thời điểm bắt đầu của thời hiệu dựa trên tiêu chuẩn chủ quan đã được áp dụng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) đối với một số trường hợp pháp luật nội dung không quy định thời hiệu khởi kiện.

Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước trên thế giới

(10/11/2014)

Hiện nay trên thế giới, tuỳ theo đặc điểm truyền thống, môi trường pháp lý, điều kiện kinh tế - xã hội ở từng nước mà tổ chức thi hành án dân sự có thể được thể hiện dưới hình thức là một tổ chức công hoặc do tư nhân đảm nhiệm. Các nước có tổ chức thi hành án dân sự công tiêu biểu là Thụy Điển, Trung Quốc, Nga, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Mỹ và phần lớn các nước trong cộng đồng chung châu Âu (Đức, Thuỵ Điển...)(1)... Đặc điểm chung nổi bật nhất của mô hình thi hành án công là tổ chức thi hành án bao gồm hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, các chấp hành viên là công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Trong tổ chức thi hành án công có thể phân làm hai loại: Cơ quan thi hành án nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án và các cơ quan thi hành án thuộc cơ quan hành pháp.

Kinh nghiệm thừa nhận và sử dụng luật tục ở một số quốc gia trên thế giới

(10/11/2014)

Trong các xã hội tiền nhà nước, luật tục giữ vai trò thống trị. Cũng như ở Việt Nam, các dân tộc ở các nước trên thế giới đều có luật tục riêng của mình để điều chỉnh các quan hệ trong cộng đồng tộc người.
Khái niệm luật tục được các nhà khoa học nước ta bàn luận nhiều, nhưng về cơ bản thống nhất khái niệm được đưa vào Từ điển Luật học: “Luật tục là những quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc do các cộng đồng làng xã xây dựng nên và được truyền từ đời này sang đời khác”(1). Luật tục có thể tồn tại bằng truyền miệng hoặc có thể được ghi bằng văn bản. Luật tục là pháp luật của các cộng đồng làng xã hoặc của cả một cộng đồng dân tộc thiểu số. Luật tục, khi có nội dung phù hợp với tiến bộ xã hội, tạo được công bằng, công lý và trật tự xã hội, thì được Nhà nước thừa nhận và trở thành pháp luật tập quán, còn nếu cổ hủ, lạc hậu hoặc mang tính chất mê tín dị đoan thì sẽ bị Nhà nước cấm đoán(2).