Nhà nước pháp quyền Việt Nam: Chủ trương - Thực trạng - Triển vọng [1]
Sign In

Nhà nước pháp quyền Việt Nam: Chủ trương - Thực trạng - Triển vọng [1]

Hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền không chỉ còn là một nguyện vọng, một mong muốn. Đó cũng không đơn thuần chỉ là một chủ trương, một quyết sách. Với sự ra đời và đang từng bước đi vào cuộc sống của Hiến pháp năm 1992, việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã có một văn bản pháp luật thật sự quan trọng và có ý nghĩa như một điều kiện tiên quyết.
 

Xét theo bản chất, một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân, mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước như vậy, phải là một Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, trong ngôn ngữ Việt Nam, ngay khái niệm Nhà nước pháp quyền cũng còn là một khái niệm khá mới mẻ. Nói một cách công bằng, rất nhiều người đã nghe, đã biết về Nhà nước pháp quyền với tính cách là một học thuyết cần được biết đến nhưng hoàn toàn xa lạ.

Sự đổi mới tư duy theo đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay, giúp chúng tôi nhận thức lại một khái niệm, một hiện tượng xã hội, trước hết là về mặt học thuyết mà có thời chúng tôi đã không thừa nhận và về vấn đề đặt ra cũng không phải chỉ là sự chấp nhận một khái niệm có tính học thuật. Ở đây, thực sự đã có sự nhận thức lại, đổi mới tư duy đối với những hiện tượng xã hội vốn cực kỳ phức tạp.

Có thể nói, nhận thức của chúng tôi về nhà nước và pháp luật đã được làm phong phú thêm một cách đáng kể. Trên cơ sở những nhận thức truyền thống về hai hiện tượng xã hội này, chúng ta có thêm và đầy đủ căn cứ để khẳng định: Sự ra đời của nhà nước và pháp luật trong lịch sử đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của văn minh nhân loại, nói lên sự trưởng thành phát triển đến độ chín cần thiết của các cộng đồng người với tính cách là một xã hội, một quốc gia. Trong xã hội hiện đại, nhà nước chính là hình thức với phương thức hợp lý nhất tổ chức cuộc sống cộng đồng, điều hòa, phối hợp lợi ích, hành vi, hoạt động của các thành viên bảo đảm sự phát triển ngày càng đi lên của cả cộng đồng. Không sử dụng nhà nước với tính cách là tổ chức thích hợp cuộc sống cộng đồng, sự phát triển của văn minh nhân loại chắc chắn đã không đạt đến trình độ như ngày nay. Sự tồn tại của pháp luật, vai trò, tác dụng của pháp luật lại không thể tách rời nhà nước, một tổ chức có chức quyền. Pháp luật, bản thân nó lại được xem là một giá trị xã hội lớn, gắn liền với những thuộc tính đặc trưng của đời sống cộng đồng, nhất là trong điều kiện của xã hội hiện đại. Nhà nước sẽ không còn tồn tại với tính chất của một tổ chức công quyền, nếu không có pháp luật, không gắn với pháp luật và phát huy đầy đủ vai trò, tác dụng của pháp luật. Ngược lại, pháp luật sẽ không còn là pháp luật, nếu không gắn liền với nhà nước, không tồn tại như là một thuộc tính của nhà nước trong việc thực hiện công quyền. Trên tinh thần đó, chúng tôi khẳng định sự cần thiết của nguyên tắc nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật, không thể bằng những lời kêu gọi bằng đạo lý và sự thuyết lý. Một nhà nước, để thực sự được xem là một nhà nước với đúng nghĩa của nó, phải là một Nhà nước pháp quyền.

Điều rất đáng chú ý là sự đổi mới tư duy đã giúp chúng tôi trở lại với những cội nguồn của tính chất Nhà nước pháp quyền của Việt Nam. Chắc một số các bạn cũng biết năm 1919, ngay tại nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc bấy giờ còn mang tên Nguyễn Ái Quốc, đã gửi đến cho những người đại diện của các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất tại Hội nghị Véc-xây Bản “Yêu sách của nhân dân An Nam”. Xét theo nội dung và tính chất của toàn bộ Bản yêu sách cũng như từng yêu sách trong 8 yêu sách của Bản yêu sách này, chúng ta thấy ở đây những tư tưởng có thể làm cơ sở cho việc xây dựng một chính quyền theo những nguyên tắc của một Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật, đặc biệt là yêu sách thứ 7: “Thay đổi chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật” là rất đặc sắc. Sau này, năm 1922, khi diễn ca bản yêu sách của mình bằng những vần ca dao dễ đọc, dễ nhớ để phổ cập lan rộng trong đồng bào Việt Nam mình, tư tưởng quan trọng này của yêu sách đã được Hồ Chí Minh nâng cao thành hai câu ca bất hủ:

“Bảy xin Hiến pháp ban hành

Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.

Điều quan trọng là phải ban hành Hiến pháp, một Hiến pháp về phương diện chính trị xã hội, thể hiện những lý tưởng dân quyền. Và điều quan trọng hơn, trong toàn bộ hoạt động của xã hội, “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Nói theo ngôn ngữ ngày nay là phải có ý thức, tinh thần pháp luật, tôn trọng pháp luật.

Về mặt này, chúng ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh rất nhất quán. Hơn 20 năm sau, khi đã trở thành Chủ tịch nước, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập (ngày 02/9/1945), với tư cách là Người đứng đầu Nhà nước, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã trình bày báo cáo “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước dân chủ cộng hòa”. Trong đó, cùng với nhiệm vụ chống đói, chống nạn dốt đã đặt lên hàng đầu, nhiệm vụ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu và xây dựng bản Hiến pháp dân chủ”. Cũng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội đầu tiên của Việt Nam đã được tiến hành 4 tháng sau đó và bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam - Hiến pháp năm 1946 đã được ban hành, tiếp theo đó 3 bản Hiến pháp khác nhau của Việt Nam: Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 cũng đã được lần lượt ban hành vào những thời điểm lịch sử rất khác nhau của xã hội Việt Nam. Như vậy, ngay từ đầu và trong một quá trình hơn nửa thế kỷ tồn tại của mình, Nhà nước Việt Nam luôn luôn là một Nhà nước hợp hiến, luôn luôn có Hiến pháp của mình - một Hiến pháp dân chủ - về phương diện chính trị, kinh tế, xã hội.

Một trong những đặc điểm tiêu biểu của lịch sử lập hiến Việt Nam là ở những thời điểm lịch sử có tính chất bước ngoặt của xã hội Việt Nam, các bản Hiến pháp mới được ban hành, thay thế Hiến pháp cũ, đánh dấu một giai đoạn mới và đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới của xã hội Việt Nam. Các Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 đã ra đời trong những thời điểm như vậy. Chính trong tinh thần đó, chúng ta hiểu được vì sao hiện nay Việt Nam vừa có một bản Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1992. Thời kỳ đổi mới của xã hội Việt Nam bắt đầu từ giữa những năm 80 cần có một bản Hiến pháp mới và Hiến pháp năm 1992 đã ra đời. Chúng ta hoàn toàn có căn cứ để khẳng định, Hiến pháp năm 1992 là đạo luật cơ bản của thời kỳ đổi mới của xã hội Việt Nam, là cơ sở pháp lý tối quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Căn cứ vào các chế định của các Hiến pháp Việt Nam, có thể chỉ ra những tư tưởng cơ bản của Nhà nước hợp hiến, Nhà nước hiến pháp, Nhà nước pháp quyền Việt Nam, và điều này, có thể thấy đặc biệt rõ nét qua Hiến pháp năm 1992 đó là:

1. Nhà nước phải là một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; nhân dân là người chủ chính quyền, là nguồn gốc của quyền lực nhà nước

Tư tưởng nhà nước của dân, do dân và vì dân hoàn toàn không mới mẻ trong lịch sử tư tưởng chính trị của các nước. Nét đặc trưng cơ bản của tư tưởng này trong lịch sử tư tưởng và chính trị, thực tiễn Việt Nam là ở chỗ: Nó được khẳng định như một thành quả của cuộc đấu tranh giải phóng lâu dài của nhân dân Việt Nam chống ách thống trị hàng trăm năm của nước ngoài và chế độ vua quan phong kiến kéo dài hàng ngàn năm kết thúc bằng cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành chính quyền về tay nhân dân. Khẳng định thành quả vĩ đại của nhân dân, trong “Tuyên ngôn độc lập” đọc trong ngày khai sinh nước Việt Nam 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 10 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”.

Bản chất nhân dân, thực sự dân chủ của chế độ mới của Nhà nước mới tồn tại ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay giải thích vì sao chế độ đó, Nhà nước đó có khả năng động viên được mọi nguồn năng lực to lớn từ trong nhân dân để không chỉ đứng vững mà còn ra khỏi ba cuộc chiến tranh với tư cách là người chiến thắng. Đó cũng là nguồn lực bảo đảm cho những bước đi rõ ràng và vững chắc của sự nghiệp đổi mới hiện nay.

2. Quyền lực phải được tổ chức và thực thi theo nguyên tắc tập quyền có phân công, phân nhiệm

Trong xã hội Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền lực của nhân dân được trao cho Quốc hội, Quốc hội thực hiện quyền lực nhà nước theo sự phân công, phân nhiệm. Các cơ quan hành pháp: Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; các cơ quan tư pháp: Tòa án, Viện kiểm sát - đều là những cơ quan chấp hành luật trong phạm vi và theo phương thức do Quốc hội quy định và chịu sự giám sát của Quốc hội.

Nguyên tắc tập quyền có phân công, phân nhiệm bảo đảm tính dân chủ, sự huy động, thể hiện trí tuệ tập thể trong quyết định và tính hợp lý, khoa học, hiệu quả trong thực thi quyền lực, sự chuyên môn hoá và hiệu quả của lao động quyền lực.

Xét theo thực chất, nguyên tắc tập quyền có phân công, phân nhiệm không hoàn toàn đối lập với nguyên tắc phân chia quyền lực vẫn thường thấy ở hiến pháp các nước. Cái khác biệt cơ bản phải chăng là ở quan niệm về bản chất của quyền lực và phương thức thực thi quyền lực. Nhưng dù tập quyền có phân công, phân nhiệm hoặc phân chia quyền lực thì điều thiết yếu vẫn là phải thực hiện một sự phân công hợp lý lao động quyền lực bảo đảm tính hiệu quả của hình thức lao động rất đặc thù này trong sinh hoạt xã hội.

3. Quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật phải trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước, tổ chức cuộc sống cộng đồng của toàn xã hội, điều hòa, phối hợp hành vi, sự ứng xử của các thành viên cộng đồng

Một điều ngẫu nhiên thú vị có nhiều ý nghĩa là Điều 12 của cả Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định trong xã hội Việt Nam, Nhà nước quản lý xã hội “theo pháp luật” (ở Hiến pháp năm 1980, hoặc “bằng pháp luật” (ở Hiến pháp năm 1992) và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhưng điều hoàn toàn không ngẫu nhiên khi cả hai hiến pháp này của Việt Nam đều khẳng định nguyên tắc quản lý bằng (hoặc theo) pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa).

Sự ra đời của khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa là một thành tựu không thể phủ nhận của trí tuệ, của văn hoá pháp luật xã hội chủ nghĩa trước đây và chúng ta đều biết nó đã ra đời và được khẳng định hoàn toàn không dễ dàng. Gọi nó là thành tựu của trí tuệ, vì nó mang tính tổng kết, tính khái quát sâu sắc của tư duy pháp lý và thực tiễn pháp lý và có thể nói, nó đã trở thành học thuyết với một nội hàm sâu rộng trong triết học pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nói một cách vắn tắt: nói đến pháp chế xã hội chủ nghĩa là nói đến một yêu cầu, một nguyên tắc mang tính phổ biến; sự tôn trọng, chấp hành một cách nghiêm minh, thống nhất trong toàn xã hội, kể cả bộ máy nhà nước và nhân viên nhà nước, pháp chế khi đã thành nguyên tắc, đòi hỏi phải tổ chức và thực thi quyền lực hành sự của nhân viên nhà nước trong khuôn khổ pháp luật, bằng pháp luật và theo pháp luật. Đối với mọi công dân, với tính cách là thành viên của cộng đồng xã hội, pháp chế đòi hỏi sự ứng xử của họ và mọi hành vi của họ cũng phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Đó chính là điều mà Nguyễn Ái Quốc tức Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.

Nói đến pháp chế cũng là nói đến một nhà nước mà ở đó hệ thống pháp luật được ban hành và thường xuyên được hoàn chỉnh, sự phân định rõ ràng cấp bậc, thẩm quyền ban hành các loại văn bản pháp quy. Nói đến pháp chế cũng là nói đến một bộ máy nhà nước mà ở đó một quy chế công chức với một chế độ trách nhiệm chặt chẽ được ban hành và thực thi nghiêm chỉnh v.v…

Trong tinh thần đó, khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa không xa lạ, càng không đối lập với khái niệm Nhà nước pháp quyền. Không phải ngẫu nhiên, hiện nay trong khi chúng tôi nói đến việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền như một nhiệm vụ vừa có tính bức xúc, thời sự, vừa có ý nghĩa lâu dài thì chúng tôi vẫn không từ bỏ khái niệm và nguyên tắc pháp chế trong tổ chức, thực thi quyền lực và tổ chức cuộc sống cộng đồng.

Tuy nhiên, đặt trên bình diện so sánh, tôi cho rằng khái niệm Nhà nước pháp quyền có nội hàm phong phú, bao quát hơn khái niệm pháp chế. Trong tinh thần đó, khái niệm pháp chế không tự nhiên biến mất và không được để nó bị quên lãng mà phải làm cho nó trở thành một nội dung, một nguyên tắc của khái niệm Nhà nước pháp quyền.

4. Nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và thực thi quyền lực, tổ chức cuộc sống cộng đồng, các quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân phải trở thành một nội dung, một bộ phận trọng yếu trong khái niệm Nhà nước pháp quyền

Chúng ta vui mừng nhắc lại tại đây rằng, nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền con người một cách đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá đã được bản Hiến pháp mới của Việt Nam - Hiến pháp năm 1992 trịnh trọng khẳng định, và như vậy, được nâng lên thành một nguyên tắc hiến định.

Sự khẳng định của Hiến pháp năm 1992 khi được đặt bên cạnh bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” (tháng 6 năm 1919) của Nguyễn Ái Quốc sẽ giúp chúng ta phát hiện ra một cái gì đó có tính nhất quán, liên tục.

Nhân đây, có thể nói thêm rằng bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” (tháng 6 năm 1919), bản “Việt Nam yêu cầu ca” (năm 1922) của Nguyễn Ái Quốc, khi được xem xét trong một tổng thể, chúng ta có tìm thấy ở đây dáng dấp, đề án về một bản tuyên ngôn quyền con người của Việt Nam ra đời cách đây 7, 8 thập kỷ, và điều rất thú vị: Ngay trên đất Pháp - quê hương của Bản Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân nổi tiếng của Cách mạng năm 1789.

Đương nhiên, nói đến quyền con người chúng ta không được xem xét nó một cách trừu tượng, hay nói theo ngôn ngữ khoa học là phi lịch sử, mà phải đặt nó trong một không gian, môi trường với những điều kiện, trình độ, truyền thống lịch sử cụ thể của một xã hội tại từng thời điểm nhất định, với một địa chỉ rõ ràng. Trong tinh thần đó, có thể khẳng định, việc đề cập đến quyền con người tách khỏi quyền tự quyết của một dân tộc chắc chắn sẽ không tránh khỏi mang tính áp đặt.

5. Một dấu hiệu quan trọng, không thể thiếu của một Nhà nước pháp quyền là việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và công dân

Như chúng ta đều biết, đây là vấn đề muôn thủa của các xã hội nói chung và của các giai cấp cầm quyền trong các nhà nước nói riêng. Phải nói rằng, vấn đề này không phải bao giờ cũng được giải quyết đúng đắn và vì vậy, không phải bao giờ cũng thành công.

Trong Nhà nước pháp quyền, mối quan hệ đó phải được giải quyết theo nguyên tắc về trách nhiệm tương hỗ giữa nhà nước và công dân. Mỗi chủ thể đều có quyền và có trách nhiệm của mình trước chủ thể kia, yêu cầu đó được thể hiện thành một quy tắc hiến định tại Điều 51 của Hiến pháp năm 1992 quy định quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và luật quy định.

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay diễn ra trong một môi trường xã hội khác hẳn với tình hình đất nước Việt Nam trước đây, đó là việc xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn liền với việc xây dựng một nền kinh tế thị trường và đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong điều kiện định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn được giữ vững.

Về mặt này, phải thừa nhận rằng, Hiến pháp mới có những quy định khá đặc sắc, Điều 57 quy định quyền tự do kinh doanh, Điều 58 quy định công dân có quyền sở hữu về tư liệu, sản xuất, Điều 23 quy định tài sản hợp pháp của cá nhân (đương nhiên, bao gồm cả tài sản tư nhân) không bị quốc hữu hoá. Kinh tế tư bản tư nhân cũng được thừa nhận trong Hiến pháp mới, mục đích cơ bản ở đây là trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế nhằm làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội văn minh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội vì con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục đích phấn đấu cao nhất của một Nhà nước pháp quyền.

Phải thừa nhận rằng, Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền của mình trong một hoàn cảnh rất đặc thù, với những đặc điểm khá riêng biệt. Từ đó, vấn đề đặt ra là từ chủ trương chung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, phải tính cho hết đặc thù, đặc trưng tiêu biểu để xác định những nội dung chủ yếu, nguyên tắc, phương pháp xây dựng, vạch định bước đi, tốc độ phát triển. Trong tinh thần đó, “Việt Nam” trong cụm từ Nhà nước pháp quyền Việt Nam không đơn thuần chỉ là một địa danh mà bao gồm nhiều ý nghĩa, nội dung, từ các mặt mạnh, tích cực đến các mặt chưa mạnh, tiêu cực. Vấn đề là phải giữ được bản sắc Việt Nam của xã hội Việt Nam và con người Việt Nam.

Điều cơ bản là ý thức cộng đồng và trình độ dân trí kết tinh từ lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước, tính cách, thói quen, tâm linh, nếp suy nghĩ thể hiện tư duy truyền thống và hoạt động thực tiễn của con người Việt Nam, kể cả cung cách, phương thức xây dựng, tổ chức, điều hành chính quyền qua các thế kỷ từ cổ đại đến đương đại đều cần được tính đến, cân nhắc, xem xét toàn diện.

6. Trong điều kiện xã hội cụ thể hiện nay, phải chăng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Ra sức khuyến khích phát triển nền kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần theo cơ chế thị trường với các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng có sự quản lý của Nhà nước, giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của đất nước, tạo tiền đề và làm nền tảng vật chất cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền vốn rất phức tạp, khó khăn.

- Khuyến khích bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam theo phương châm dân tộc, hiện đại, đại chúng, nhân văn trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến Việt Nam và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, phát triển giáo dục làm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân của con người Việt Nam, nâng cao dân trí với ý nghĩa đầy đủ, toàn diện của nó.

- Xây dựng, hoàn thiện, tăng cường hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam theo tinh thần dân chủ hoá sinh hoạt xã hội, tạo cơ chế chính trị thích hợp đáp ứng các yêu cầu của công cuộc đổi mới, phát huy dân chủ, giữ vững ổn định, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tạo môi trường xã hội lành mạnh.

- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước là một trong những điều kiện quan trọng nhất, tạo tiền đề cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Mục đích của việc đổi mới này là làm cho sự lãnh đạo của Đảng có chất lượng, hiệu quả hơn, đồng thời bảo đảm cho sự quản lý, điều hành của Nhà nước có hiệu lực hơn, quyền làm chủ, tính năng động của công dân được phát huy mạnh mẽ. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước nghĩa là thực hiện nguyên tắc hiến định: Đảng hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, Đảng lãnh đạo chứ không làm thay Nhà nước. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra là phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, để cho cả Đảng và Nhà nước đều hoạt động đúng chức năng và phát huy đầy đủ vai trò của mình.

- Thúc đẩy công cuộc cải cách bộ máy nhà nước thực sự theo nguyên tắc tập quyền, có phân công, phân nhiệm, xây dựng một cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với nguyên lý nhà nước chỉ có một, không có nhà nước trung ương, nhà nước địa phương, có phân công, phân nhiệm giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, cả nước thống nhất trong một nhà nước đơn nhất, đẩy mạnh cải cách hành chính xây dựng một bộ máy điều hành đủ mạnh, có khả năng hoàn thành nhiệm vụ điều hành đất nước có kỷ luật nghiêm minh, có chế độ trách nhiệm chặt chẽ, năng động, sáng tạo, có hiệu quả cao; đẩy mạnh cải cách tư pháp xây dựng một bộ máy trong sạch, thực hiện đúng nguyên tắc độc lập xét xử chỉ tuân theo và phải tuân theo pháp luật, có năng lực, trình độ ngang tầm nhiệm vụ của cơ quan thể hiện công lý của chế độ. Xây dựng Tòa án hành chính, Tòa án kinh tế và các Tòa án chuyên trách khác đáp ứng yêu cầu của chức năng tài phán, bảo đảm hiệu lực và tính nghiêm chỉnh của pháp luật của một Nhà nước pháp quyền.

 - Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất quán, năng động, có tác dụng thúc đẩy từng bước hình thành cơ chế thị trường và nền dân chủ, thể hiện bản sắc của con người Việt Nam, phù hợp với thực tế Việt Nam, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm, tri thức tiến bộ của các nước trên thế giới.

- Căn cứ vào Hiến pháp năm 1992, khẩn trương và có bước đi vững chắc, tổng rà soát hệ thống pháp luật hiện hành, từng bước theo đúng tiến độ, xây dựng ngày càng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đổi mới, trong đó dành ưu tiên cho các văn bản luật kinh doanh thương mại, lao động và các văn bản luật bảo đảm quyền dân chủ, tự do của công dân, hoàn thiện bộ máy nhà nước đủ hiệu năng, hiệu lực và đặc biệt quan trọng - xây dựng một bộ máy bảo đảm thực thi và chấp hành pháp luật nghiêm minh, thống nhất, tạo môi trường pháp lý ổn định, đáng tin cậy cho toàn bộ hoạt động của xã hội.

Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền diễn ra trong điều kiện mở cửa, hòa nhập vào đời sống quốc tế. Điều đó đưa lại nhiều thuận lợi cơ bản, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề chính trị pháp lý cần được xử lý một cách đúng đắn.

 

TS. Nguyễn Đình Lộc

Bộ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn 1992 - 2002

 

(Bài viết được Lưu trữ tại Bộ Tư pháp)