Thi hành pháp luật
Sign In
Triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về đánh giá chuẩn tiếp cận pháp luật

(23/01/2015)

Để có công cụ đánh giámột cách hệ thống, đồng bộ và toàn diện thực trạng tiếp cận pháp luật của người dân ngay tại địa bàn cơ sở, làm căn cứ để các cơ quan nhà nước đề ra các giải pháp quản lý phù hợp; kịp thời khắc phục những hạn chế, yếu kém cũng như khuyến khích, biểu dương, nhân rộng điển hình, tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân, ngày 24/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ban hành Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở(sau đây gọi làQuyết định số 09/2013/ QĐ-TTg).

Quy trình đánh giá, khen thưởng địa phương đạt chuẩn về tiếp cận pháp luật – Những ưu điểm, hạn chế và giải pháp khắc phục

(23/01/2015)

Ngày 13/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ban hành Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở (gọi tắt là Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg) với nhiều giải pháp quan trọng để bảo đảm quyền thông tin pháp luật, quyền tiếp cận pháp luật và sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg đã khẳng định vị trí, vai trò của chuẩn tiếp cận pháp luật trong đời sống chính trị - pháp lý, gắn với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước và từng địa phương.

Giải pháp nhằm hạn chế vi phạm pháp luật trong đấu giá quyền sử dụng đất

(23/01/2015)

Đấu giá quyền sử dụng đất là hình thức Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất được ghi nhận trong pháp luật đất đai hiện hành. Từ khi được pháp luật chính thức thừa nhận đến nay, hình thức đấu giá quyền sử dụng đất đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của các địa phương nói riêng bởi những lợi ích mà nó đã mang lại, góp phần tạo lập sự ổn định, minh bạch trong hoạt động giao đất, cho thuê đất; là cơ sở để Nhà nước xác định được giá trị thực của đất; giúp cho Nhà nước huy động được tối đa nguồn thu cho ngân sách, tạo vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, đây cũng là kênh huy động vốn hữu hiệu đối với người có quyền sử dụng đất, là cách thức để Nhà nước khơi dậy khả năng đang tiềm ẩn của đất đai.

Một số vấn đề về quy trình gia hạn, thu hồi, hủy bỏ quyết định hành chính

(22/01/2015)

Ban hành Quyết định hành chính luôn gắn liền với việc gia hạn, thu hồi và hủy bỏ quyết định hành chính, khi không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí của Quyết định hành chính (các tiêu chí gồm: Trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành quyết định và nội dung quyết định).

Pháp luật về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam trước yêu cầu hội nhập

(22/01/2015)

Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập cảnh đã ban hành phù hợp với đường lối đối ngoại, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu thu hút người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam để tham quan du lịch, đầu tư, kinh doanh, lao động, học tập, nghiên cứu khoa học… đồng thời đáp ứng được yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực này đã cho thấy nhiều quy định còn bất cập, không thống nhất giữa các văn bản, gây khó khăn cho công tác quản lý của các cơ quan chức năng.

Ưu tiên thanh toán trong thi hành án dân sự – Chỉ được thực hiện khi đủ điều kiện

(22/01/2015)

Hệ thống các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện nay đang dần được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Theo pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự, mà trực tiếp chấp hành viên là người có trách nhiệm đảm bảo hiệu lực trên thực tế của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tính hiệu quả trong việc này phụ thuộc trước hết vào tính khách quan, công bằng trong phán quyết của bản án, quyết định đó. Ngoài ra, tính minh bạch, rõ ràng trong các quy định của pháp luật cũng là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Xin nêu và phân tích một vụ việc cụ thể để thấy rõ tầm quan trọng cũng như vướng mắc mà chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự gặp phải như sau:
Trong quá trình giải quyết vụ kiện dân sự đòi lại tài sản giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Tú và bị đơn là ông Nho Văn Lập. Theo đơn đề nghị của ông Tú, ngày 13/01/2014, Tòa án nhân dân huyện K đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản của ông Lập với số tiền phong tỏa là 320.000.000 đồng. Việc thực hiện Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được cơ quan thi hành án dân sự huyện K thụ lý và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Quy trình thương lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay

(16/01/2015)

Thương lượng tập thể là một trong những hình thức biểu hiện của quan hệ lao động, là công cụ để xác định điều kiện lao động và sử dụng lao động tại doanh nghiệp, tạo điều kiện cho quan hệ lao động phát triển hài hòa, lành mạnh, bền vững, làm cân bằng lợi ích của hai bên; đồng thời góp phần phòng ngừa, hạn chế và giải quyết các tranh chấp lao động phát sinh trong quan hệ lao động. Với tư cách là một bộ phận của hệ thống pháp luật về quan hệ lao động, pháp luật về thương lượng tập thể quy định về nguyên tắc, quy trình mà các bên trong quan hệ lao động sẽ đàm phán, thảo luận với nhau để xác lập các quyền, nghĩa vụ và lợi ích cụ thể của mình theo chiều hướng cao hơn mức tối thiểu được quy định bởi pháp luật về tiêu chuẩn lao động. Do vậy, các quy định của pháp luật về quy trình thương lượng tập thể luôn là nội dung có vai trò hết sức quan trọng của pháp luật về thương lượng tập thể. Các quy định về quy trình thương lượng cần phải bảo đảm cho quá trình thương lượng được diễn ra một cách hiệu quả và thực chất trên thực tế. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào việc phân tích thực trạng các quy định của pháp luật và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quy trình thương lượng tập thể trong quan hệ lao động ở Việt Nam hiện nay.

Đại diện thương lượng phía tập thể lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

(06/01/2015)

Việt Nam là một trong những thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh. Quá trình hội nhập quốc tế đã nhanh chóng mang lại cho người lao động và tổ chức công đoàn Việt Nam những thuận lợi và thách thức to lớn trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế này ở Việt Nam đã tạo ra một môi trường hoàn toàn khác trong quan hệ việc làm ở cấp doanh nghiệp, cấp ngành và cấp quốc gia. Thực tiễn quan hệ lao động hiện nay đang có những biến đổi bởi sự tác động của nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng, sự phát triển của khu vực kinh tế phi tư nhân… Trước những biến đổi đó, cả công đoàn cấp trên cơ sở và công đoàn cơ sở đều đứng trước những thách thức trong việc đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho người lao động. Công đoàn cấp trên cơ sở bị hạn chế trong việc hỗ trợ và hướng dẫn công đoàn cơ sở, trong khi đó công đoàn cơ sở thiếu năng lực đàm phán và thương lượng tập thể. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung vào việc phân tích thực trạng các quy định của pháp luật và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện thương lượng tập thể từ phía tập thể lao động trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

Nhận diện về lao động cưỡng bức trong pháp luật lao động Việt Nam hiện hành

(06/01/2015)

Từ những nỗ lực không mệt mỏi trong cuộc chiến đấu loại bỏ lao động cưỡng bức (LĐCB), ngày 28/6/1930, Hội nghị Lao động Quốc tế đã thông qua Công ước số 29 về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc (Công ước số 29) và Việt Nam đã là thành viên của Công ước này, đồng thời đang trong lộ trình xem xét để gia nhập Công ước số 105 về xóa bỏ LĐCB. Điều đó đặt ra yêu cầu “nội luật hóa” một cách đầy đủ nội dung của các công ước như là nghĩa vụ bắt buộc của một quốc gia thành viên. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền cơ bản của người lao động tại nơi làm việc. Chính vì vậy, nguyên tắc hiến định đã được ghi nhận trong  Hiến pháp Việt Nam năm 2013: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” và “nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động” . Tuy nhiên cho đến nay, sự nhận diện về LĐCB trong pháp luật Việt Nam để đảm bảo thực hiện nguyên tắc hiến định này vẫn là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm trong lĩnh vực lập pháp. Trên phương diện pháp lý, LĐCB được nhận diện từ nhiều góc độ khác nhau, bằng các quy phạm pháp luật  trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau tùy vào tính chất công việc mà người lao động phải thực hiện như: Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Phòng chống ma túy, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động… Trong khuôn khổ bài viết, nhận diện LĐCB chỉ được đề cập trong phạm vi của pháp luật lao động.