Thi hành pháp luật
Sign In
Giải pháp thúc đẩy luật sư tham gia trợ giúp pháp lý

(28/09/2015)

Ý nghĩa xã hội của công tác trợ giúp pháp lý là Nhà nước tạo cơ hội cho nhóm những người yếu thế trong xã hội được tiếp cận công lý một cách bình đẳng với những người khác trong xã hội.

Quyền trẻ em trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

(18/09/2015)

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 19/6/2014 đã bao quát tương đối toàn diện và kịp thời điều chỉnh các quan hệ thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình đang diễn ra trong thực tế đời sống xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Luật này có nhiều điểm mới so với những quy định trước đây về lĩnh vực hôn nhân và gia đình, đặc biệt là những quy định liên quan đến quyền trẻ em. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã dành nhiều điều khoản quy định trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em với tư cách là chủ thể đặc biệt trong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ - Quan niệm thế nào về "huyết thống" và "mẹ"

(18/09/2015)

Mang thai hộ được hiểu là một người phụ nữ này mang thai cho một cặp vợ chồng khác trên cơ sở lấy trứng (noãn) của người vợ và tinh trùng của người chồng bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm phát triển thành phôi, phôi này được cấy trở lại dạ con của người phụ nữ mang thai hộ, sau khi sinh, người phụ nữ này phải trao lại con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Về mặt sinh học, mang thai hộ không có sự di truyền giữa người phụ nữ mang thai và đứa trẻ, đứa trẻ sẽ mang gen của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, là máu mủ, ruột thịt, là huyết thống của cặp vợ chồng nhờ mang thai.

Vướng mắc trong triển khai thực hiện Nghị định số 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ

(25/08/2015)

Nhằm quy định cụ thể những hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ngày 15/11/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Nghị định số 185/2013/NĐ-CP). Tuy nhiên, việc áp dụng, triển khai thực hiện Nghị định số 185/2013/NĐ-CP trong thực tế vẫn còn gặp một số vướng mắc, bất cập, đặc biệt là trong trường hợp cơ sở kinh doanh vi phạm về hoạt động kinh doanh theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Cụ thể: Trường hợp cơ sở kinh doanh vi phạm về địa điểm kinh doanh so với giấy phép kinh doanh. Cơ sở A đã được cấp giấy phép kinh doanh tại địa điểm xã K, tuy nhiên, chủ cơ sở kinh doanh lại tổ chức kinh doanh tại địa điểm phường T (không nằm trong quy hoạch địa điểm được kinh doanh). Trong trường hợp này khoản 1 Điều 6 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định: “Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi kinh doanh không đúng ngành nghề, mặt hàng, địa điểm kinh doanh ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Vấn đề đặt ra ở đây là sau khi hoàn tất các thủ tục xử phạt vi phạm hành chính thì sẽ thế nào? Kết quả xử lý vi phạm hành chính có "triệt để" nhằm chấm dứt hành vi vi phạm hay không, cơ sở đó vẫn được tồn tại hay không, chủ cơ sở đó có bị đình chỉ kinh doanh hoặc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay không? Theo các quy định hiện hành có liên quan dẫn đến có những ý kiến trái chiều xoay quanh sự việc này.

Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay

(25/08/2015)

Công tác kiểm tra, rà soát và xử lý văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) là một hoạt động quan trọng nhằm rà soát, khắc phục và loại bỏ các văn bản có nội dung sai trái hoặc không phù hợp, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, hợp lý và thống nhất của hệ thống pháp luật. Hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL được Chính phủ xác lập đầu tiên vào năm 2003 thông qua việc ban hành Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về kiểm tra xử lý văn bản QPPL và sau đó được thay thế bằng Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010. Đây là những cơ sở pháp lý chủ yếu và trực tiếp để cơ quan chức năng thực hiện hoạt động kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. Nhờ đó công tác kiểm tra văn bản thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, từng bước đi vào nề nếp. Số lượng văn bản trái pháp luật ngày càng giảm, góp phần không nhỏ trong công tác quản lý nhà nước.
Mặc dù vậy, công tác kiểm tra, xử lý văn bản QPPL của các bộ, ngành và địa phương trên thực tế chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu; chưa được tiến hành thường xuyên; thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xử lý văn bản QPPL chưa thực sự rõ ràng, rành mạch, chưa theo một cơ chế hoàn thiện, thống nhất và ổn định. Hơn nữa, những quy định làm cơ sở cho hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản QPPL còn dàn trải. Các luật, điều luật chưa được tổng hợp, chưa làm rõ bước đi và hình thức thực hiện cơ chế kiểm tra về nội dung cho công tác kiểm tra văn bản QPPL để hoạt động này mang lại ý nghĩa và hiệu quả thiết thực.