Công tác xây dựng Ngành Tư pháp gắn với việc triển khai thực hiện các nghị quyết về công tác tổ chức bộ máy, cán bộ và tinh giản biên chế
Sign In

Công tác xây dựng Ngành Tư pháp gắn với việc triển khai thực hiện các nghị quyết về công tác tổ chức bộ máy, cán bộ và tinh giản biên chế

Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức”[1]. Để cụ thể hóa các nhiệm vụ nêu trên, Đảng ta đã ban hành các nghị quyết: Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành Trung ương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (Nghị quyết số 39-NQ/TW); Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả (Nghị quyết số 18-NQ/TW); Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị quyết số 19-NQ/TW) và Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp (Nghị quyết số 27-NQ/TW).
Qua hơn 04 năm thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW và hơn 02 năm thực hiện Nghị quyết số 18, 19, 27-NQ/TW đã đem lại những kết quả rất tích cực, từ việc xây dựng thể chế đến những kết quả cụ thể của cả hệ thống chính trị. Với tư cách là một cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Tư pháp đã thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Ngành Tư pháp như việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức của Bộ, Ngành gắn với việc triển khai thực hiện các nghị quyết nêu trên.
1. Kết quả công tác xây dựng Ngành Tư pháp
Thứ nhất, về công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế
Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Bộ Tư pháp đã chủ trì rà soát các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc một cơ quan, tổ chức làm nhiều việc nhưng một việc chỉ giao cho một cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính, thực hiện phân cấp, ủy quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ với các bộ, ngành, giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương và giữa các cấp chính quyền địa phương. Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều văn bản liên quan đến việc sắp xếp, thu gọn đầu mối các đơn vị hành chính và đơn vị sự nghiệp của Bộ Tư pháp.
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW và Nghị quyết số 18-NQ/TW, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (Nghị định số 96/2017/NĐ-CP). Trên cơ sở Nghị định số 96/2017/NĐ-CP, Bộ Tư pháp ban hành Đề án kiện toàn cơ cấu tổ chức, hoạt động của các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp (theo Quyết định số 1610/QĐ-BTP ngày 05/10/2017 của Bộ Tư pháp), trong đó, hướng dẫn các đơn vị thuộc Bộ xây dựng Đề án sắp xếp cơ cấu tổ chức, cán bộ thuộc đơn vị mình, xây dựng quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các đơn vị theo quy định của Nghị định số 96/2017/NĐ-CP. Đến nay, Bộ Tư pháp đã ban hành quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của 22 đơn vị thuộc Bộ. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp tiếp tục nghiên cứu, rà soát và sẽ sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của các đơn vị hành chính thuộc Bộ sau khi Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ (Nghị định số 123/2016/NĐ-CP), đảm bảo thực hiện theo đúng mục tiêu và nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW. Nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành theo hướng thông suốt, thống nhất, hiệu quả, phù hợp với Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01/10/2016 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Quy chế làm việc mới của Bộ[2].
Đối với việc hoàn thiện thể chế các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ, Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Tư pháp đến năm 2021, định hướng đến năm 2030 và Danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp[3]. Việc Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho Bộ Tư pháp trong việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ bảo đảm tinh gọn, đồng bộ, thống nhất; thực hiện tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng cung cấp dịch vụ công; thực hiện vận dụng cơ chế tài chính doanh nghiệp đối với những đơn vị sự nghiệp đủ điều kiện theo quy định. Theo Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp của Bộ Tư pháp giai đoạn từ nay đến năm 2025, Bộ Tư pháp sẽ thu gọn ít nhất 05 đơn vị sự nghiệp công lập. Đồng thời, giúp các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp trong việc tăng dần mức độ tự chủ hàng năm trên cơ sở phù hợp với lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công của các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực kinh tế và sự nghiệp khác. Phấn đấu đến hết năm 2030 có 60% đơn vị sự nghiệp có thể tự đảm bảo chi thường xuyên. Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi một số đơn vị sự nghiệp sang hoạt động theo mô hình vận hành theo cơ chế tài chính doanh nghiệp.
Đối với các cơ quan tư pháp địa phương, thực hiện Nghị định số 123/2016/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã chủ động xây dựng và ban hành Quy định về tiêu chuẩn chức danh Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương[4]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho các cơ quan tư pháp địa phương thực hiện việc sắp xếp, bố trí cán bộ lãnh đạo Sở Tư pháp đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ được giao. Đồng thời, Bộ Tư pháp cũng đã chủ động xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh[5]. Theo dự thảo Thông tư này, việc sắp xếp về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp địa phương cũng được xây dựng theo hướng bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW.
Đối với việc thực hiện tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ/TW, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2224/QĐ-BTP phê duyệt phương án phân bổ biên chế năm 2017 và giai đoạn 2017 - 2021 đối với các đơn vị quản lý nhà nước thuộc Bộ, trong đó dự kiến phương án giảm biên chế đối với từng đơn vị trong từng năm để bảo đảm đến năm 2021 giảm tối thiểu 10% biên chế so với năm 2015; Quyết định số 2389/QĐ-BTP ngày 19/9/2018 về phương án giao số lượng người làm việc (biên chế sự nghiệp) năm 2018 và giai đoạn 2018 - 2021 đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ. Việc ban hành 02 văn bản này giúp cho Bộ Tư pháp chủ động trong việc thực hiện tinh giản biên chế, bố trí, sắp xếp, đánh giá cán bộ, tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Bộ bảo đảm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, về thực hiện phân cấp, phân quyền cho các cơ quan tư pháp và cơ quan thi hành án dân sự địa phương
Nghị quyết số 18-NQ/TW đã xác định: “Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế”. Trong thời gian qua, Bộ, Ngành Tư pháp đã thực hiện mạnh mẽ, toàn diện việc phân cấp quản lý trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, Ngành Tư pháp như luật sư, tư vấn pháp luật, bán đấu giá tài sản, giám định tư pháp, nuôi con nuôi, lý lịch tư pháp, chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý… cho các cơ quan tư pháp địa phương. Ngoài ra, Bộ, Ngành Tư pháp cũng đã quan tâm, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp địa phương thực hiện nhiệm vụ được phân công, phân cấp với các hình thức như tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; trao đổi, trả lời các vướng mắc, khó khăn... Việc phân cấp, phân quyền cho các cơ quan thi hành án dân sự (THADS) địa phương được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục THADS và các cơ quan THADS, theo đó, việc kiện toàn các chức danh Lãnh đạo cấp Phòng thuộc Cục THADS và Phó Chi cục trưởng được giao cho Cục trưởng Cục THADS. Việc phân cấp đã giúp xác định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cấp trong hệ thống Ngành Tư pháp; phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền địa phương; giải quyết công việc cho dân nhanh chóng, thuận lợi, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả nước, góp phần vào việc đổi mới phương thức quản lý nhà nước theo hướng cấp trung ương tập trung vào việc quản lý vĩ mô, ban hành thể chế, chính sách, tổ chức thực hiện và bảo đảm quản lý thống nhất theo quy định pháp luật trong phạm vi cả nước. Đồng thời, đội ngũ cán bộ tư pháp từng bước được tăng cường năng lực, trình độ, thực hiện nhiệm vụ một cách chuyên nghiệp và trách nhiệm hơn. Cùng với việc phân cấp, phân quyền, Bộ Tư pháp cũng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của các cơ quan tư pháp và cơ quan THADS địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, về sắp xếp tổ chức bộ máy
Đối với các đơn vị hành chính, trên cơ sở Nghị định số 96/2017/NĐ-CP và thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Bộ Tư pháp đã sắp xếp, giảm 02 đơn vị cấp vụ[6], 50% đơn vị hành chính thuộc Bộ đã giảm đầu mối đơn vị cấp phòng với tỷ lệ cắt giảm từ 20% trở lên đầu mối đơn vị cấp phòng; điều chỉnh lại nhiệm vụ giữa một số đơn vị thuộc Bộ nhằm khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục đánh giá, rà soát về hiệu quả tổ chức, hoạt động của các đơn vị thuộc Bộ và hoạt động cấp phòng để nghiên cứu sáp nhập, hợp nhất các phòng có biên chế ít và khối lượng công việc không nhiều nhằm tinh gọn đầu mối bên trong.
Đối với các đơn vị sự nghiệp, thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW và Quyết định số 1030/QĐ-TTg, Bộ Tư pháp đã sắp xếp, giảm 01 đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ so với thời điểm 30/6/2017[7], dự kiến đến hết năm 2021, Bộ Tư pháp tiếp tục giảm 04 đơn vị sự nghiệp thuộc và trực thuộc Bộ. Về thực hiện tự chủ, tính đến cuối năm 2019, Bộ Tư pháp đã có 07 đơn vị tự chủ về chi thường xuyên, vượt chỉ tiêu của Nghị quyết số 19-NQ/TW đề ra.
Đối với cơ quan tư pháp địa phương, ngày 16/8/2018, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có Công văn số 308-CV/BCSĐ gửi Ban Thường vụ Thành ủy, Tỉnh ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị phối hợp chỉ đạo sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp địa phương theo đúng tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW trên cơ sở tham khảo dự thảo Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV.
Thứ tư, về biên chế công chức, số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập (biên chế sự nghiệp)
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, Bộ Tư pháp đã phê duyệt Đề án tinh giản biên chế của Bộ Tư pháp giai đoạn 2015 - 2021[8], trong đó xác định mục tiêu thực hiện tỷ lệ tinh giản biên chế đến năm 2021 tối thiểu đạt 10% số biên chế công chức và số lượng người làm việc của Bộ Tư pháp được Bộ Nội vụ giao năm 2015 và số lượng lao động hợp đồng quy định tại Nghị định số 68/2000/NĐ-CP; khuyến khích các đơn vị sự nghiệp công lập có nguồn thu sự nghiệp đẩy mạnh chuyển đổi thêm 10% số lượng người làm việc sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và xã hội hóa, thay thế nguồn trả lương từ ngân sách nhà nước bằng việc trả lương từ nguồn thu sự nghiệp. Trên cơ sở Đề án tinh giản biên chế của Bộ, các đơn vị thuộc Bộ và hệ thống THADS đã xây dựng Đề án tinh giản biên chế trong 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2021 và Kế hoạch tinh giản biên chế hàng năm trình Bộ phê duyệt để triển khai thực hiện.
Triển khai thực hiện Đề án tinh giản biên chế, hàng năm, Bộ Tư pháp đều thực hiện giảm biên chế của các đơn vị hành chính và đơn vị sự nghiệp, tính đến thời điểm 31/12/2019, Bộ Tư pháp đã giảm 7,7% biên chế hành chính và giảm 63% số người làm việc hưởng lương từ ngân sách nhà nước của các đơn vị sự nghiệp so với biên chế giao năm 2015. Cùng với việc thực hiện giảm biên chế công chức, hàng năm, Bộ Tư pháp thực hiện tinh giản biên chế theo quy định của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế (Nghị định số 108/2014/NĐ-CP), Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31/8/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2014/NĐ-CP. Tất cả các trường hợp tinh giản biên chế đều được hưởng chính sách về hưu trước tuổi hoặc chính sách thôi việc ngay theo quy định tại Nghị định số 108/2014/NĐ-CP.
Thứ năm, về cơ cấu lại, tuyển dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
Trong những năm qua, Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Tư pháp luôn xác định chủ trương, phương hướng xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và chuyên gia là một trong các chủ trương, phương hướng quan trọng của công tác xây dựng Ngành để đáp ứng yêu cầu công tác hoạch định chiến lược, chính sách, quản lý vĩ mô của Bộ, Ngành Tư pháp. Thực hiện chủ trương nêu trên, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các đơn vị chức năng xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng theo các tiêu chuẩn chức danh và vị trí việc làm; đề nghị cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm chuyên gia cao cấp theo quy định tại Quyết định số 68-QĐ/TW ngày 04/7/2007 của Bộ Chính trị ban hành Quy chế bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử; tổ chức hoặc cử công chức đi dự thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương do Bộ Nội vụ hoặc các bộ quản lý chuyên ngành tổ chức, đề nghị Bộ Nội vụ bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương theo quy định. Đối với ngạch công chức chuyên ngành do Bộ Tư pháp quản lý trong hệ thống THADS, Bộ đã phối hợp với Bộ Nội vụ tổ chức các thi nâng ngạch lên thẩm tra viên cao cấp, chấp hành viên cao cấp. Tuy nhiên, số lượng chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính và tương đương của Bộ Tư pháp hiện nay chiếm tỷ lệ thấp chưa tương xứng với yêu cầu công việc quản lý vĩ mô, hoạch định chiến lược, chính sách của Bộ.
Công tác tuyển dụng, tiếp nhận tiếp tục được đổi mới theo hướng tăng tính cạnh tranh, công khai, minh bạch, bám sát yêu cầu của vị trí việc làm, có điều kiện, tiêu chuẩn chuyên biệt phù hợp với đặc thù của một số đơn vị, bảo đảm người được tuyển dụng, tiếp nhận có phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng tốt yêu cầu công việc tại Bộ. Bên cạnh việc tuyển dụng, tiếp nhận công chức, Bộ phê duyệt chỉ tiêu tuyển dụng, kế hoạch và kết quả tuyển dụng viên chức, tiếp nhận, kéo dài thời gian công tác đối với viên chức của một số đơn vị thuộc Bộ bảo đảm đúng quy định của pháp luật và quy chế phân cấp quản lý công chức, viên chức của Bộ.
Thứ sáu, về xây dựng danh mục, bản mô tả vị trí việc làm
Thực hiện Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22/4/2013 của Chính phủ về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, Bộ Tư pháp đã trình Bộ Nội vụ phê duyệt Danh mục vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức hành chính của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở Danh mục vị trí việc làm đã được phê duyệt, Bộ Tư pháp đã phê duyệt Bản mô tả công việc và khung năng lực của từng vị trí việc làm theo Danh mục đã được phê duyệt của các đơn vị hành chính thuộc Bộ. Đối với vị trí việc làm trong các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tư pháp,  Bộ Tư pháp đã phê duyệt danh mục vị trí việc làm trong các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Tư pháp và Bản mô tả công việc và khung năng lực của từng vị trí việc làm theo danh mục đã được phê duyệt.
Tuy nhiên, thực hiện nhiệm vụ tại Nghị quyết số 27-NQ/TW: “Các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị trực tiếp xây dựng và hoàn thiện danh mục vị trí việc làm, bản mô tả công việc, xác định cơ cấu công chức, viên chức, cấp bậc hàm sĩ quan; xác định khung năng lực theo từng vị trí việc làm và tinh giản biên chế theo các nghị quyết của Đảng và quy định của Nhà nước đã được ban hành. Trên cơ sở đó, thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang để thực hiện trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo” và yêu cầu của các cơ quan quan nhà nước, Bộ Tư pháp đang xây dựng danh mục, bản mô tả vị trí việc làm nghiệp vụ chuyên ngành tư pháp (bao gồm vị trí việc làm chuyên môn nghiệp vụ của các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan tư pháp địa phương, các cơ quan THADS địa phương) và vị trí việc làm pháp chế - chuyên môn dùng chung để áp dụng thống nhất trong cả nước. Việc xây dựng vị trí việc làm theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng, ban hành hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành; chuyển xếp lương cũ sang lương mới.
2. Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng Ngành Tư pháp vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, về tổ chức bộ máy
Việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của Bộ, Ngành Tư pháp trong thời gian qua còn chưa kịp thời do Nghị quyết của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII được ban hành ngày 25/10/2017, trong khi đó, việc kiện toàn tổ chức bộ máy của Chính phủ được thực hiện theo nhiệm kỳ Chính phủ 2016 - 2021, theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Nghị định số 123/2016/NĐ-CP và Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập (Nghị định số 55/2012/NĐ-CP). Tuy nhiên, hiện nay, Chính phủ đang sửa đổi Nghị định thay thế Nghị định số 123/2016/NĐ-CP và Nghị định số 55/2012/NĐ-CP, theo đó, việc sắp xếp tổ chức bộ máy các đơn vị thuộc Bộ sẽ tiếp tục được thực hiện sau khi Chính phủ ban hành 02 nghị định này.
Đồng thời, việc xây dựng và ban hành một số văn bản về tổ chức bộ máy của Bộ, Ngành chưa bảo đảm tiến độ do phải chờ các văn bản là căn cứ ban hành, như Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV đã được đánh giá, xây dựng dự thảo từ năm 2017, tuy nhiên, do Nghị định thay thế Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/04/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/05/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chưa ban hành nên Bộ Tư pháp chưa có cơ sở pháp lý để ban hành Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV; Thông tư quy định về cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp thuộc Ngành Tư pháp do phải chờ dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập.
Thứ hai, về biên chế và tinh giản biên chế
Biên chế công chức và số lượng người làm việc chưa tương xứng với các nhiệm vụ ngày càng tăng cường, mở rộng được giao cho Bộ, Ngành Tư pháp, trong khi đó, Bộ đồng thời phải thực hiện việc cắt giảm biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ/TW, Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW. Điều này đã dẫn đến quá tải về khối lượng công việc cho đội ngũ công chức, viên chức của Bộ.
Thứ ba, về công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức
Cơ cấu cán bộ còn chưa hợp lý, vẫn còn tình trạng bị động, hụt hẫng giữa các thế hệ cán bộ. Chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao còn hạn chế, số lượng chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và tương đương còn chiếm tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với yêu cầu và tính chất, vị trí công việc; đội ngũ chuyên gia đầu Ngành còn ít, chưa có nhiều chuyên gia đủ sức tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách pháp luật và giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. Việc thu hút cán bộ có năng lực, kinh nghiệm về công tác tại Bộ còn gặp nhiều khó khăn.
3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan
- Chủ trương tinh giản biên chế, sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bộ máy là chủ trương lớn của Đảng, nhiều điểm mới, có việc phức tạp, nhạy cảm trong khi nhận thức của một số đơn vị thuộc Bộ, một bộ phận công chức, viên chức về sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn chưa đầy đủ, toàn diện.
- Các quy định của pháp luật về công tác tổ chức cán bộ còn chưa đầy đủ, bất cập, nhất là quy định về tuyển dụng, thu hút nhân tài; chế độ, chính sách đối với công chức, viên chức Ngành Tư pháp chưa tương xứng với đặc thù, tính chất, yêu cầu công việc của Ngành.
- Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong thời gian qua gia tăng nhanh, nhiều nhiệm vụ mới, đột xuất song tổ chức, biên chế chưa theo kịp dẫn đến có một số bất cập trong vấn đề tổ chức, biên chế so với yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, nguyên nhân chủ quan
- Việc xây dựng một số văn bản, đề án, quy chế trong công tác cán bộ còn chậm.
- Công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác tổ chức, cán bộ tại một số đơn vị còn chưa kịp thời, thường xuyên. Sự phối hợp của thủ trưởng một số đơn vị thuộc Bộ và các cơ quan hữu quan đối với công tác tổ chức cán bộ Ngành Tư pháp đôi lúc còn chưa được quan tâm đúng mức.
- Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức, cán bộ của Bộ, Ngành còn mỏng, quá tải đối với công việc; chưa được quan tâm bồi dưỡng bài bản nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ một cách chính quy, chuyên nghiệp; việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tổ chức, cán bộ còn chậm được thực hiện.
4. Nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới
Thứ nhất, tiếp tục rà soát, tham mưu sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, quy định, quyết định, hướng dẫn… về tổ chức bộ máy, biên chế để triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW. Tiếp tục rà soát và sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của Bộ, Ngành sau khi Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 123/2016/NĐ-CP, Nghị định thay thế Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, Nghị định thay thế Nghị định số 37/2014/NĐ-CP… bảo đảm thực hiện theo đúng mục tiêu và nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết số 18-NQ/TW.
Thứ hai, rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối tổ chức của các đơn vị thuộc Bộ theo nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ, nhưng một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính, gắn việc cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tiếp tục thực hiện phương án sắp xếp hệ thống cơ quan THADS (gắn với việc hoàn thiện thể chế về ngành, lĩnh vực liên quan) và tổ chức bên trong (tổ chức hành chính và đơn vị sư nghiệp công lập), bảo đảm đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 18-NQ/TW; đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp công lập theo lộ trình tại Quyết định số 1030/QĐ-TTg bảo đảm tinh gọn, giảm số lượng đơn vị sự nghiệp và đẩy mạnh tự chủ về tài chính, giảm tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp theo đúng lộ trình.
Thứ ba, thực hiện việc giao và quản lý chặt chẽ biên chế đối với các đơn vị thuộc Bộ trên cơ sở vị trí việc làm, loại hình tổ chức; tiếp tục thực hiện nghiêm việc tinh giản biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ/TW, Nghị định số 108/2014/NĐ-CP, Nghị định số 113/2018/NĐ-CP và Đề án tinh giản biên chế của Bộ Tư pháp.
Thứ tư, đẩy mạnh thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Bộ với các cơ quan tư pháp và thi hành án địa phương, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, đi đôi với kiểm tra, giám sát quyền lực bằng các quy chế, quy định pháp luật, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức thuộc phạm vi, thẩm quyền được giao, phù hợp với đặc điểm, tình hình của cơ quan, đơn vị.
Thứ năm, đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin trong việc thực hiện nhiệm vụ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Bộ, Ngành.
Thứ sáu, tiếp tục phối hợp với Bộ Nội vụ và các cơ quan có liên quan hoàn chỉnh việc xây dựng danh mục, bản mô tả vị trí việc làm nghiệp vụ chuyên ngành tư pháp và vị trí việc làm pháp chế - chuyên môn dùng chung để trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước.
ThS. Trần Thị Hải & Vũ Thị Thu Hiền
Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp
 
 
[1] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 203.
[2] Quyết định số 2402/QĐ-BTP ngày 27/11/2017.
[3] Quyết định số 19/QĐ-TTg ngày 05/01/2019 và Quyết định số 1030/QĐ-TTg ngày 16/8/2019.
[4] Thông tư số 10/TT-BTP ngày 30/12/2019 quy định về tiêu chuẩn chức danh Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thay thế Quyết định số 07/QĐ-BTP ngày 01/8/2006 về việc ban hành tiêu chuẩn Giám đốc Sở Tư pháp làm cơ sở để bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, thi tuyển, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng Giám đốc, Phó Giám đốc Sở Tư pháp theo quy định.
[5] Thông tư của Bộ Tư pháp thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (dự thảo Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV).
[6] Thay đổi mô hình quản lý của Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng từ một đơn vị thuộc Bộ thành một đơn vị sự nghiệp thuộc Cục; giải thể 01 Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột để thành Phân hiệu của Trường Đại học Luật Hà Nội tại Đắk Lắk.
[7] Giải thể Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột từ ngày 31/12/2019 và trở thành Phân hiệu của Trường Đại học Luật Hà Nội tại Đắk Lắk.
[8] Quyết định số 1703/QĐ-BTP ngày 08/9/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.