1. Sự ra đời Nghị định số 22/2013/NĐ-CP - Đánh dấu sự đổi mới cơ bản về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của Bộ Tư pháp
Bộ Tư pháp từ khi tái thành lập năm 1981 cho đến nay, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức đã có nhiều thay đổi. Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng với chức năng giúp Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quản lý thống nhất các việc về tư pháp trong cả nước, bao gồm xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, quản lý về mặt tổ chức các toà án nhân dân địa phương và quản lý nhà nước các công tác tư pháp khác (luật sư, công chứng, giám định...) đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật trong cả nước.
Năm 1992, Hiến pháp của thời kỳ đổi mới được Quốc hội thông qua. Năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/CP ngày 4/6/1993 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp trong thời kỳ đổi mới, trong giai đoạn 1993 - 2002, Bộ Tư pháp được tiếp tục giao thêm nhiều trọng trách mới: quản lý công tác thi hành án dân sự; thẩm định các dự án luật, pháp lệnh, các dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ; đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán và các chức danh tư pháp khác; quản lý nhà nước công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách; công tác hoà giải; hoạt động bán đấu giá tài sản; hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm; hoạt động hành nghề tư vấn pháp luật của Tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam; tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Trọng tài kinh tế...
Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 khẳng định đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp để phù hợp với vị trí của Bộ trong tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
Năm 2008, trước yêu cầu của tình hình mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/08/2008 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thay thế cho Nghị định số 62/2003/NĐ-CP. Theo đó, Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Trước yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế, vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của Ngành Tư pháp ngày càng được mở rộng, tăng cường.
Ngày 13/3/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, đánh dấu sự phát triển và tiếp tục khẳng định vị thế, vai trò của Bộ, Ngành Tư pháp trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế, nhưng cũng đồng thời đặt ra những yêu cầu mới với khối lượng công việc ngày càng lớn, tính chất và mức độ ngày càng khó khăn và phức tạp; đòi hỏi, yêu cầu cao về chất lượng, khẩn trương về tiến độ giải quyết công việc.
2. Một số nội dung mới của Nghị định số 22/2013/NĐ-CP
2.1. Về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp
Nghị định số 22/2013/NĐ-CP đã cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng cải cách hành chính, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của Bộ Tư pháp theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách pháp luật. Theo Nghị định số 22/2013/NĐ-CP, Bộ Tư pháp được giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Nghị định số 22/2013/NĐ-CP đã kế thừa quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp theo Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và sửa đổi, bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn mới được giao hoặc điều chỉnh theo các văn bản mới được ban hành sau Nghị định số 93/2008/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
- Bổ sung nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành chính nhằm bảo đảm sự gắn kết giữa công tác kiểm soát thủ tục hành chính với công tác xây dựng và theo dõi thi hành pháp luật của Bộ Tư pháp.
- Bổ sung nhiệm vụ trong lĩnh vực theo dõi thi hành pháp luật trên cơ sở kế thừa nhiệm vụ theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được quy định tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và phù hợp với Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ về theo dõi thi hành pháp luật. Theo đó, giao Bộ Tư pháp trong việc theo dõi thi hành pháp luật trong các lĩnh vực tư pháp, đòi hỏi sự phối hợp liên ngành của Bộ Tư pháp.
- Bổ sung thêm nhiệm vụ trong lĩnh vực hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật theo Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật và Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật.
- Bổ sung nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Bộ Tư pháp thực hiện quản lý công tác thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước, có trách nhiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; theo dõi chung và báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ trong việc thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; kiểm tra việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; thống kê, xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính.
- Sửa đổi quy định về trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để bảo đảm phù hợp với Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, bao gồm quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật; là cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật ở trung ương; công nhận và miễn nhiệm báo cáo viên pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận.
- Quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc giúp Chính phủ quản lý nhà nước về thi hành án hành chính theo Điều 246 Luật Tố tụng hành chính. Đồng thời sửa đổi các nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án dân sự để phù hợp với quy định về nhiệm vụ của Bộ Tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự.
- Quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp thực hiện quản lý bồi thường nhà nước trong quản lý hành chính và thi hành án; phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thực hiện quản lý công tác bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng để bảo đảm phù hợp với Luật Trách nhiệm của Nhà nước. Việc quy định này nhằm xác định rõ trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về công tác bồi thường góp phần vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả các quy định của Hiến pháp và pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, bảo vệ lợi ích của tổ chức, cá nhân bị người thi hành công vụ gây thiệt hại, bảo đảm sự hoạt động bình thường, ổn định của các cơ quan công quyền, đặc biệt là giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
- Bổ sung nhiệm vụ liên quan đến lĩnh vực lý lịch tư pháp theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp. Theo đó, Bộ Tư pháp chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ về lý lịch tư pháp; ban hành và quản lý thống nhất các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về lý lịch tư pháp; quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia; lập lý lịch tư pháp, cấp Phiếu lý lịch tư pháp, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp theo quy định.
- Sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp của Bộ Tư pháp về quản lý luật sư, tư vấn pháp luật, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại và giám định tư pháp theo các văn bản mới ban hành như Luật Công chứng, Luật Trọng tài thương mại, Luật Giám định tư pháp, Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28/7/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, Nghị định số 131/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 hướng dẫn thi hành các quy định của Luật Luật sư, Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 về tư vấn pháp luật.
- Bộ Tư pháp cũng được giao nhiệm vụ là đại diện pháp lý cho Chính phủ trong các tranh chấp quốc tế. Đây là những nhiệm vụ hết sức quan trọng, có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của Nhà nước cũng như của các doanh nghiệp và cá nhân.
- Quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc xây dựng xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn tiếp cận pháp luật ở xã, phường, thị trấn.
2.2. Về cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
Để triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao, trong đó có những nhiệm vụ mới và những nhiệm vụ được mở rộng, tăng cường, tổ chức bộ máy của các cơ quan trong Ngành Tư pháp đã từng bước được kiện toàn, củng cố theo hướng chuyên môn hóa theo từng lĩnh vực, bảo đảm các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính.
Theo Nghị định số 22/2008/NĐ-CP và Quyết định số 1369/QĐ-TTg, Bộ Tư pháp có 34 đơn vị, trong đó có 22 đơn vị quản lý nhà nước và 12 đơn vị sự nghiệp trực thuộc. Sau khi Nghị định số 22/2013/NĐ-CP có hiệu lực, Bộ đã triển khai việc kiện toàn Cục Công tác phía Nam trên cơ sở Cơ quan đại diện của Bộ tại TP. Hồ Chí Minh, Cục Hộ tịch, quốc tịch và chứng thực trên cơ sở Vụ Hành chính tư pháp và Cục Bổ trợ tư pháp trên cơ sở Vụ Bổ trợ tư pháp.
Thực hiện Luật Xử lý vi phạm hành chính, năm 2014, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật. Đồng thời, theo Nghị định số 22/2013/NĐ-CP, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự bao gồm 08 đơn vị, trong đó thành lập mới Vụ Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật. Đồng thời, theo Nghị định số 22/2013/NĐ-CP, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự bao gồm 08 đơn vị, trong đó thành lập mới Vụ Quản lý thi hành án hành chính để tổ chức thực hiện nhiệm vụ thi hành án hành chính mới được giao cho các cơ quan thi hành án dân sự theo Luật Tố tụng hành chính.
Như vậy, cho đến nay tổ chức của Bộ Tư pháp có 35 đơn vị, trong đó có 23 đơn vị quản lý nhà nước và 12 đơn vị sự nghiệp. Cơ cấu các đơn vị thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Bộ có 10 Cục, 09 Vụ, Văn phòng, Thanh tra và Tổng cục Thi hành án dân sự. Tương ứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ cấu các đơn vị thuộc Bộ bao gồm các nhóm lĩnh vực:
- Nhóm các đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác xây dựng, thi hành pháp luật gồm 06 đơn vị: Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Vụ Pháp luật quốc tế, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính. Các đơn vị này thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật, thẩm định các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
- Nhóm các đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước công tác tư pháp, gồm có 09 đơn vị: Tổng cục Thi hành án dân sự, Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Cục Bổ trợ tư pháp, Cục Trợ giúp pháp lý, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Cục Con nuôi và Cục Bồi thường nhà nước, Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật. Các đơn vị này thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về các lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp (hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, trợ giúp pháp lý, đăng ký giao dịch bảo đảm, nuôi con nuôi, bồi thường nhà nước), bổ trợ tư pháp (công chứng, giám định tư pháp, luật sư và tư vấn pháp luật, trọng tài thương mại, bán đấu giá tài sản…) và quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Nhóm các đơn vị tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý nội bộ các hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp gồm có 08 đơn vị: Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch - Tài chính, Vụ Thi đua - Khen thưởng, Cục Công nghệ thông tin, Cục Công tác phía Nam. Nhóm các đơn vị này chủ yếu thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý các vấn đề về nội bộ, đảm bảo các điều kiện cho hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp về tổ chức cán bộ, thanh tra, kế hoạch - tài chính, thi đua - khen thưởng…
- Nhóm các đơn vị sự nghiệp gồm 12 đơn vị: Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia, Viện Khoa học pháp lý, nhóm các đơn vị sự nghiệp báo chí, xuất bản của Bộ (Nhà Xuất bản Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam) và nhóm các đơn vị sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ (Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp, Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột, Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên, Trường Trung cấp Luật Vị Thanh, Trường Trung cấp Luật Đồng Hới, Trường Trung cấp Luật Tây Bắc).
Ngoài ra, thực hiện Quy định số 215-QĐ/TW ngày 5/12/2013 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Đảng ủy cấp trên trực tiếp tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Khối các cơ quan trung ương, Đảng ủy Bộ Tư pháp đã thành lập Văn phòng Đảng - Đoàn thể của Bộ Tư pháp (đơn vị tương đương cấp Vụ) là đầu mối sinh hoạt hành chính của cán bộ chuyên trách công tác đảng, đoàn thể. Chánh Văn phòng Đảng - Đoàn thể tương đương Vụ trưởng của Vụ thuộc Bộ.
3. Kết quả đạt được
Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ra đời đã cụ thể hóa, thể hiện đường lối, quan điểm chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng cách hành chính, đổi mới cơ bản về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của Bộ Tư pháp theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách pháp luật.
Nghị định số 22/2013/NĐ-CP đã khẳng định rõ vị thế của Bộ Tư pháp trong tình hình mới. Chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp đã được rà soát và xác định rõ ràng, cụ thể, không bỏ sót và không chồng chéo với các Bộ, ngành khác. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và hoạt động sự nghiệp trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ được phân định rõ ràng. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý thống nhất trong phạm vi cả nước về các lĩnh vực mà Bộ được giao quản lý như: (1) Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; (2) Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; (3) Phổ biến, giáo dục pháp luật; (4) Thi hành án dân sự; (5) Hành chính tư pháp; (7) Bổ trợ tư pháp; (8) Hướng dẫn nghiệp vụ công tác pháp chế Bộ, Ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước; (9) Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; (10) Các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước và (11) Quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Để đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ được giao trong tình hình mới, hiện nay cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp đã được kiện toàn, củng cố, thành lập mới và nâng cấp một số đơn vị thuộc Bộ. Trong cơ cấu tổ chức của Bộ đã hình thành thích hợp một số cơ quan quản lý chuyên ngành, lĩnh vực để phù hợp với việc tổ chức Bộ quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, giải quyết tốt hơn vấn đề phân cấp, ủy quyền của Bộ trưởng trong quản lý các chuyên ngành, lĩnh vực cũng như thực hiện quản lý chuyên sâu, ổn định đối với từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Trong 02 năm thực hiện Nghị định số 22/2013/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đã xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền thành lập Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật theo yêu cầu triển khai thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính và kiện toàn Tổng cục Thi hành án dân sự để thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án hành chính theo Luật Tố tụng hành chính.
Trên cơ sở Nghị định số 22/2013/NĐ-CP, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị đã được phân định rõ ràng, hạn chế những trùng lặp, chồng chéo; thể chế hóa việc phân cấp thẩm quyền giữa thủ trưởng các đơn vị với Bộ theo hướng quy định rõ nhiệm vụ do thủ trưởng đơn vị quyết định, nhiệm vụ thủ trưởng đơn vị tham mưu, trình Bộ trưởng xem xét, giải quyết. Phương thức và lề lối làm việc có nhiều tiến bộ hơn, mở rộng dân chủ, phân cấp quản lý được đẩy mạnh, đi đôi với việc tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát thực hiện. Đội ngũ cán bộ của Bộ, Ngành tiếp tục được bổ sung và nâng cao về chất lượng để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Việc bổ nhiệm, điều động, bố trí sắp xếp cán bộ trong các đơn vị thuộc Bộ, đặc biệt là đôi với các đơn vị mới được thành lập, chuyển đổi mô hình tổ chức và đối với việc sắp xếp kiện toàn tổ chức các phòng trực thuộc các đơn vị thuộc Bộ giữ được ổn định, đoàn kết trong đơn vị.
4. Một số hạn chế, bất cập phát sinh
Sau 02 năm thực hiện, Nghị định số 22/2013/NĐ-CP đã phát huy được vai trò của mình, giúp Bộ, Ngành Tư pháp có đủ cơ sở để thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng được đòi hỏi của xã hội trong tình hình mới. Tuy nhiên, cuộc sống thay đổi không ngừng, cho đến nay đã phát sinh những nhiệm vụ, quyền hạn mới giao cho Bộ, Ngành Tư pháp mà Nghị định số 22/2013/NĐ-CP chưa đề cập tới, vì vậy, trong quá trình thực hiện đã nảy sinh những hạn chế, bất cập, cụ thể:
- Trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc giúp Chính phủ triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 (theo Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/01/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày 13/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
- Nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thống nhất công tác giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế theo Quyết định số 04/2012/QĐ-TTg ngày 14/1/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.
- Nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong quản lý các chức danh nghề nghiệp hỗ trợ phục vụ cho việc thực hiện quyền tư pháp như thừa phát lại (Nghị quyết số 36/2012/NQ-QH13), quản tài viên (theo Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản và Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản).
- Bộ Tư pháp được giao là cơ quan chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ, Quốc hội việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự. Đây là các lĩnh vực pháp luật cơ bản, nền tảng của hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hiện nay chưa có cơ quan nào có trách nhiệm trong việc tổ chức thi hành các bộ luật nêu trên, dẫn đến những mâu thuẫn nhất định trong hệ thống pháp luật, mâu thuẫn giữa văn bản chuyên ngành với các quy định của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự.
- Một số nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong các lĩnh vực hộ tịch, thi hành án dân sự chưa được nghiên cứu, bổ sung theo Luật Hộ tịch và Luật Thi hành án dân sự mới được ban hành.
- Trong những năm qua, phân cấp quản lý trong các lĩnh vực công tác tư pháp đã được đẩy mạnh, được thực hiện một cách toàn diện trên các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp, đã góp phần vào việc đổi mới phương thức quản lý nhà nước theo hướng cấp trung ương tập trung vào việc quản lý vĩ mô, ban hành thể chế, chính sách, tổ chức thực hiện và bảo đảm quản lý thống nhất các quy định pháp luật trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy phân cấp quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ chưa kết hợp chặt chẽ, đồng bộ với việc đổi mới nội dung, phương thức quản lý và tăng cường thanh tra, kiểm tra (công tác hậu kiểm) để bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước và giải quyết các công việc cho người dân.
- Tổ chức bộ máy của Bộ cơ bản đã được kiện toàn theo yêu cầu triển khai Nghị định số 22/2013/NĐ-CP, tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách hành chính, tổ chức bộ máy thông suốt, hiệu quả thì vẫn cần tiếp tục nghiên cứu, kiện toàn tổ chức các đơn vị thuộc Bộ như việc tổ chức lại các đơn vị xây dựng pháp luật thuộc Bộ để bảo đảm sự thống nhất trong công tác tham gia xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật; nghiên cứu mô hình tổ chức thực hiện nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thống nhất công tác giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.
- Qua gần 07 năm triển khai thành lập cấp phòng thuộc Vụ và kiện toàn cấp phòng các đơn vị thuộc Bộ nói chung đã cho thấy hiệu quả trong việc thành lập cấp phòng. Tuy nhiên, việc thành lập cấp phòng chưa có tiêu chí định lượng cụ thể (về biên chế, cán bộ và chức năng, nhiệm vụ) nên có phòng chỉ có 01 - 02 cán bộ hoặc có thành lập cấp phòng nhưng chưa tổ chức ngay được thực hiện nhiệm vụ. Hiện nay, có xu hướng các đơn vị đều muốn đề xuất thành lập thêm các phòng mới để tăng đầu mối, biên chế mà chưa dựa trên việc mở rộng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao cho đơn vị hay là sự gia tăng đáng kể khối lượng công việc dẫn đến triển khai không có hiệu quả công việc.
- Mặc dù chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ngành Tư pháp ngày càng tăng cường và mở rộng, song tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp địa phương chưa được kịp thời kiện toàn dẫn đến những khó khăn trong tổ chức thực hiện công việc, hạn chế về tiến độ và chất lượng thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt là các nhiệm vụ mới được giao cho Ngành Tư pháp.
Với những hạn chế, bất cập đó, Bộ, Ngành Tư pháp gặp phải không ít những khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao.
5. Kiến nghị, đề xuất hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và kiện toàn tổ chức của Bộ Tư pháp
Việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, Ngành Tư pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội - Chính phù khóa XIV được xác định trên cơ sơ định hướng về xây dựng và phát triển Ngành Tư pháp để thực hiện các nhiệm vụ chính trị cua Bộ, Ngành theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Chiến lược xây dụng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và các định hướng về xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước của Đảng và Nhà nước. Cụ thể:
Phát huy vai trò của Bộ, Ngành Tư pháp trong việc tham mưu, giúp Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp quản lý nhà nước công tác tư pháp và pháp luật, đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phương thức quản lý, lề lối làm việc đáp ứng với yêu cầu xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả.
Đẩy mạnh việc thực hiện chất lượng, hiệu quả các nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp, hướng tới mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, Ngành Tư pháp theo Nghị định số 22/2013/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV về cơ bản đã được xác định rõ, không có sự chồng chéo, trùng lặp với các Bộ, ngành khác. Tuy nhiên, với đặc thù là một cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác tư pháp, có mối liên hệ không chỉ trong hệ thống các cơ quan hành chính mà còn với cơ quan lập pháp (Quốc hội) và các cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân), cũng như trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ Tư pháp nhận thấy cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 22/2013/NĐ-CP. Theo đó, một số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác liên quan đến Bộ, Ngành Tư pháp cần tiếp tục được nghiên cứu, quy định rõ hoặc trình Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp thực hiện.
- Bổ sung, quy định cụ thể các nhiệm vụ được giao cho Bộ, Ngành Tư pháp sau khi Nghị định số 22/2013/NĐ-CP được ban hành. Nghị định số 22/2013/NĐ-CP giao Bộ Tư pháp nhiệm vụ làm đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết tranh chấp quốc tế. Trên cơ sở Nghị định số 22/2013/NĐ-CP, ngày 14/1/2014, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 04/2012/QĐ-TTg ban hành Quy chế phối họp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, trong đó bên cạnh nhiệm vụ làm đại diện pháp lý thì Thủ tướng Chính phủ còn giao Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thống nhất công tác giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.
Cùng với quá trình thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp tiếp tục được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý các chức danh nghề nghiệp có vai trò hỗ trợ, phục vụ cho việc thực hiện quyền tư pháp như thừa phát lại (Nghị quyết số 36/2012/NQ-QH13), quản tài viên (theo Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản và Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản).
Quy định cụ thể nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong việc quản lý hương ước, quy ước của thôn, làng, bản, ấp, cụm dân cư và việc xây dựng xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.
Ngoài ra, một số nhiệm vụ của Bộ trong các lĩnh vực hộ tích, thi hành án dân sự cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung theo Luật Hộ tịch và Luật Thi hành án dân sự mới được ban hành.
Một số nhiệm vụ cụ thể đề nghị nghiên cứu, quy định rõ hoặc trình Chính phủ giao Bộ Tư pháp thực hiện. Về việc triển khai thi hành Hiến pháp, ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014. Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Việc triển khai thi hành Hiến pháp là một nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống chính trị. Theo Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 ngày 02/01/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Quyết định số 251/QĐ-TTg ngày 13/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Tư pháp được xác định là cơ quan giúp Chính phủ trong việc triên khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Do đó, cần nghiên cứu để bổ sung trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong triển khai thực hiện nhiệm vụ này để bảo đảm hiệu lực thi hành và tính tối thượng của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật và trong quản lý nhà nước và đời sống xã hội nói chung.
Hiện nay, Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ, Quốc hội việc sửa đổi, bổ sung các bộ luật lớn như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự. Nhưng trên thực tiễn cho thấy, chưa có cơ quan nào có trách nhiệm trong việc tổ chức thi hành các bộ luật nêu trên, dẫn đến những mâu thuẫn nhất định trong hệ thống pháp luật, mâu thuẫn giữa văn bản chuyên ngành với các quy định của Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự. Do vậy, với vai trò là cơ quan giúp Chính phủ trong quản lý công tác xây dựng, thi hành pháp luật, cần thiết phải nghiên cứu, giao trách nhiệm cho Bộ Tư pháp trong việc tổ chức thi hành, bảo đảm sự thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực với Hiến pháp và các bộ luật nêu trên.
Về quản lý công tác hòa giải thương mại, theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam có trách nhiệm phát triển các dịch vụ về trọng tài thương mại và hòa giải thương mại. Hiện nay, Luật Trọng tài thương mại đã được ban hành, trong đó giao Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về trọng tài thương mại. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hòa giải thương mại với ý nghĩa là một hình thức giải quyết tranh chấp thay thể ngoài tố tụng (thay cho Tòa án và trọng tài) thì chưa có cơ quan thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này về Luật Thương mại (Điều 317) quy định hòa giải thương mại là một trong những hình thức giải quyết tranh chấp trong thương mại. Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 29/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020. Do đó, trong thời gian tới, đề nghị cần nghiên cứu, bổ sung nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải thương mại nhằm xây dựng và phát triển hòa giải với ý nghĩa là một biện pháp tranh chấp thay thế ngoài Tòa án.
Về kiện toàn tổ chức của Bộ Tư pháp và các cơ quan tư pháp địa phương, thực tiễn quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập khu vực và quốc tế, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010 và phương hướng đến năm 2020 đã và đang đặt ra đối với Ngành Tư pháp những yêu cầu mới. Do đó, bên cạnh những chức năng, nhiệm vụ đã được giao thì Bộ và Ngành Tư pháp sẽ đảm nhận nhiều chức năng, nhiệm vụ mới, với khối lượng công việc ngày càng lớn, tính chất và mức độ ngày càng khó khăn và phức tạp, đòi hỏi, yêu cầu cao về chất lượng, hiệu quả và tiến độ giải quyết công việc. Vì vậy, trong thời gian tới, để đảm bảo triển khai đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ được giao, bước đầu cần nghiên cứu việc thành lập, sắp xếp, kiện toàn thêm trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, tục kiện toàn tổ chức các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp để bảo đảm phù họp với chức năng, nhiệm vụ, được giao:
- Nghiên cứu, chuyển đổi mô hình hoạt động của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia thành Cục Lý lịch tư pháp vì thực tế hiện nay do yêu cầu nhiệm vụ nên mặc dù là đơn vị sự nghiệp nhưng Trung tâm còn được giao thực hiện một số nhiệm vụ về quản lý nhà nước trong lĩnh vực lý lịch tư pháp. Bên cạnh đó, mô hình tổ chức lý lịch tư pháp cũng chưa có sự thống nhất trong phạm vi cả nước. Ở trung ương, Trung tâm Lý lịch tư pháp là đơn vị sự nghiệp nhưng tại địa phương lại có các Phòng Lý lịch tư pháp thuộc Sở Tư pháp hoặc giao nhiệm vụ cho Phòng Hành chính tư pháp thuộc Sở Tư pháp. Đây là các đơn yị thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Do vậy cần nghiên cứu, chuyển đổi mô hình tổ chức của Trung tâm thành Cục cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và bảo đảm thống nhất về mô hình tổ chức trong phạm vi cả nước.
- Nghiên cứu, đề xuất về mô hình tổ chức đặc thù đối với các đơn vị thực hiện chức năng xây dựng pháp luật theo hướng bảo đảm sự gắn kết giữa các lĩnh vực xây dựng pháp luật. Nghiên cứu để đề xuất thành lập Tổng vụ xây dựng pháp luật (tương đương Tổng cục xây dựng pháp luật) để thực hiện chức năng quản lý công tác xây dựng và thi hành pháp luật, phù hợp với việc đổi mới và nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Triển khai việc nghiên cứu, trình cơ quan có thẩm quyền thành lập một đơn vị chuyên trách thuộc Bộ Tư pháp để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thống nhất công tác giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế và làm đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế theo Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày 14/1/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.
- Nghiên cứu, rà soát, sắp xếp tổ chức các đơn vị thuộc Bộ theo hướng tinh giản, tổ chức gắn kết giữa việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật trong các lĩnh vực, giảm bớt các đầu mối và phân tán trong thực hiện nhiệm vụ của Bộ.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế quy định về tổ chức và hoạt động của các đơn vị thuộc Bộ, bảo đảm tất cả các đơn vị thuộc Bộ đều có quy chế làm việc, trong đó xác định rõ phạm vi trách nhiệm của từng cá nhân công chức, từng đơn vị trực thuộc và các quy trình, chế độ làm việc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị.
- Nghiên cứu, đề xuất không quy định cứng về số lượng cấp phòng để đảm bảo linh hoạt trong tổ chức và hoạt động của Bộ gắn với trách nhiệm của Bộ trưởng, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị thuộc bộ trên cơ sở quy định cụ thể về tiêu chí thành lập các tổ chức trực thuộc các đơn vị theo hướng kết hợp giữa chức năng, nhiệm vụ được giao và điều kiện thực tế về biên chế, cán bộ của đơn vị; quy định cụ thể tiêu chuẩn bổ nhiệm cấp trưởng, phó các phòng của các đơn vị thuộc Bộ.
- Khẩn trương, quyết liệt trong việc triển khai kiện toàn tổ chức các cơ quan tư pháp, thi hành án dân sự địa phương theo quy định; trên cơ sở đó xây dựng Đề án vị trí việc làm gắn với biên chế và cán bộ để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao.
Nguyễn Vinh - Như Quỳnh