Công lý và pháp lý theo tinh thần “chí công vô tư” của Hồ Chủ tịch
Sign In

Công lý và pháp lý theo tinh thần “chí công vô tư” của Hồ Chủ tịch

 

Thưa các đồng chí và các bạn,

Xin cho phép tôi nhắc lại ở đây, đối với một số anh em chúng ta, những ngày sang gió tâm hồn, vào đầu năm 1957.

Cải cách ruộng đất vừa hoàn thành thắng lợi, nhưng có những vấp váp. Miền Bắc bắt đầu chuyển mạnh lên con đường xã hội chủ nghĩa - một cuộc cách mạng “triệt để nhất, sâu sắc nhất”, đụng đến quyền lợi, cách sống, nếp suy nghĩ cố hữu của mọi người. Lại có những chuyện phức tạp xảy ra ở nông thôn, ở thành thị. Bọn phản động thì ngo ngoe chống đối, do Mỹ - Diệm giật dây, lợi dụng những khuyết điểm của ta vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Chủ trương tăng cường pháp chế được Trung ương Đảng đề ra những nội dung chưa cụ thể.

Đứng trước tình hình ấy, lại thêm những khó khăn lúng túng trong công tác, giới pháp lý chúng ta, hồi đó hầu hết là ở trong Ngành Tư pháp, có nhiều băn khoăn, thắc mắc, mức độ nặng nhẹ tùy từng người, làm cho nội bộ thiếu nhất trí.

Chính giữa lúc ấy, Hồ Chủ tịch đến thăm anh em chúng ta đang họp Hội nghị tư pháp toàn quốc. Được gặp Bác trong tâm trạng ngổn ngang lúc đó, anh em phấn khởi vô cùng.

Trước hết, Bác nói ôn tồn, ấm áp: “Trung ương Đảng và Chính phủ cảm thông những khó khăn của các chú. Nhưng phải giải quyết dần dần. Một mặt cán bộ tư pháp phải cố gắng, một mặt Đảng và Chính phủ phải chú ý hơn”[1]. Bác nêu lên trước phần cố gắng chủ quan của anh em. Chính là vì nguyên nhân chủ yếu của những khó khăn là do tự bản thân mình. Bác không nói hẳn thế, mà nói nhẹ hơn: “Các chú gặp khó khăn nữa (sau khi Bác đã điểm “những thiếu thốn mặt này, mặt khác” của Ngành) là ít được học tập. Do đó, đường lối, phương pháp công tác, tư tưởng bị ảnh hưởng”. Bác không quên an ủi: “Tuy vậy, trong thời gian kháng chiến và hơn hai năm hòa bình, cán bộ tư pháp có cố gắng nhiều và có thành tích”. Rồi Bác vạch cho cách giải quyết khó khăn: “Ngành Tư pháp muốn khắc phục khó khăn, phải đoàn kết nhất trí thật sự. Muốn đoàn kết thật sự, phải dựa trên cơ sở lập trường vững vàng, tư tưởng thông suốt, nội bộ dân chủ; phải giúp đỡ nhau học tập tiến bộ, thật thà phê bình, tự phê bình”. Nghĩa là: tích cực và chân thành đấu tranh tư tưởng trong nội bộ, xuất phát từ tình đoàn kết anh em, để thắt chặt đoàn kết hơn nữa. Kể ra phương thuốc cứu chữa của Bác là phương thuốc Mác - Lênin cổ truyền, nhưng riêng đối với giới Tư pháp, sự ân cần của Bác sao mà thấm thía đến thế. Vì từ trước đến nay: “Các chú ít được học tập”. Đúng quá! Bác thấy rõ rồi! Và Bác hứa: từ nay “Đảng và Chính phủ phải chú ý hơn”. Chúng tôi cảm động quá.

Thật vậy! Ở bước ngoặt lịch sử của Cách mạng này, vấn đề rèn luyện lập trường tư tưởng vô sản đối với tất cả cán bộ của Đảng và Nhà nước là vấn đề sinh tử cho bản thân cán bộ và cho sự nghiệp chung. Riêng đối với cán bộ pháp lý lại càng như thế. Vì sao? Vì cán bộ pháp lý chúng ta bị “một sức ỳ” rất nặng, nó cản trở mình, làm cho sự tiến bộ xưa nay cứ luôn luôn là chật vật. Đó là cái gì? Bác phân tích, một cách xa xôi nhưng rất sâu sắc: “Nhiệm vụ và quyền hạn của Tư pháp, Hiến pháp (năm 1946) đã quy định; nhưng tình hình hiện nay đã khác, cho nên có chỗ không thích hợp... Luật pháp của ta có mới và có cũ. Hiến pháp cũ có chỗ không hợp với tình hình và hoàn cảnh hiện nay…”. Chúng tôi hiểu rõ: cái quang vinh cho mình, đồng thời, về mặt nào đấy, cũng là cái cản trở mình, chính là ở tính chất công tác của mình, tính chất của công tác pháp lý, công tác thi hành và bảo vệ pháp luật. Pháp luật là cái gì tương đối ổn định. Nó bảo vệ, củng cố một trật tự nào đó. Nhưng nội dung của cái trật tự ấy có lúc biến chuyển nhảy vọt, đã thay đổi về chất rồi, với sự phát triển của cách mạng mà pháp luật thì lại chưa đuổi kịp. Vào đầu năm 1957, xã hội miền Bắc đã bắt đầu chuyển lên chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa của nền chuyên chính vô sản, mà pháp lý thì vẫn còn là pháp lý của giai đoạn cách mạng tư sản dân quyền.

Bác vừa vạch ra cho chúng tôi thấy rõ sự thay đổi lớn lao của thực tế xã hội, để người cán bộ pháp lý phải suy nghĩ chín chắn, biết sửa soạn cho mình một thái độ thích hợp, đặng góp phần trách nhiệm vào việc thúc đẩy bước chuyển biến mới đó: “Khoá họp Quốc hội thứ 8, đã quyết định sửa đổi Hiến pháp. Trong việc sửa đổi Hiến pháp, cán bộ tư pháp cũng cần góp phần của mình”.

Thế là Hồ Chủ tịch đã giải quyết mầu nhiệm sự bối rối của giới pháp lý trước sự chuyển mình vĩ đại của Cách mạng. Với lượng bao dung như trời biển, Bác đã đi sâu vào lòng người, hiểu thấu nguyên nhân của cơn bão táp trong tâm hồn anh em, vạch ra lối thoát êm ả, rồi khuyến khích động viên anh em trút bỏ hết thành kiến, nghi kị, hiểu lầm nhau, ra sức đoàn kết phấn đấu, giúp đỡ, thúc đẩy nhau cùng tiến lên cho kịp đà tiến chung mãnh liệt của dân tộc, của quần chúng nhân dân lao động.

Thưa các đồng chí và các bạn,

Từ những ngày đầu và trong suốt cuộc đời hoạt động của Người, Hồ Chủ tịch hết sức chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đảng viên, cán bộ, cho mọi người yêu nước, cho toàn dân. Người dạy: “Cũng như sông thì có nguồn, không có nguồn thì sông cạn; cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức”. (X.Y.Z - Sửa đổi lối làm việc).

Đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: là nhân, nghĩa, trí, dũng. Cơ bản nhất là nhân. Nhân là thương yêu đồng chí, đồng bào, rộng ra là thương yêu nhân dân lao động khắp nơi, thương yêu nhân loại đau khổ. “Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều làm được...” (Sửa đổi lối làm việc).

Sau Hội nghị Tư pháp cuối tháng 3 năm 1957, giới pháp lý đã được cùng với tất cả cán bộ nhà nước, trong nhiều đợt, nghiên cứu một cách có hệ thống sự tất yếu của cách mạng vô sản, đạo lý sâu sắc của chuyên chính vô sản, trên cơ sở lý luận đó, học tập thấm nhuần đạo đức chí công vô tư của giai cấp vô sản, tính nhân đạo cao cả của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Có thấm nhuần đạo đức vô sản, có thấm nhuần đức “Nhân” của đạo đức ấy thì người cán bộ pháp lý mới làm được tốt công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật. Đối với một số anh em chúng ta, thật không phải dễ dàng mà trước đây đã tiếp thu nhanh chóng pháp lý sáng ngời đó. Một số anh em khác, tuy đã tiếp thu được dễ dàng hơn, vì không bị vướng mắc bởi tư tưởng pháp lý cũ, nhưng cũng không phải dễ dàng mà thực hiện được, mà phải kinh qua đấu tranh gian khổ chống chủ nghĩa cá nhân...

Hồ Chủ tịch nêu đạo đức chí công vô tư cho cán bộ tư pháp ngay từ ngày Người khai sinh Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không một Tòa án nào lại không treo khẩu hiệu ấy trong phòng xử án của mình. Nội dung cụ thể của chí công vô tư thì Bác giải thích khác, đơn giản thôi cho thích hợp với trình độ nhận thức của anh em mình hồi đó đa số còn là những người xuất thân từ chế độ cũ.

Cách mạng tháng Tám đã đập tan bộ máy thống trị của thực dân phong kiến, trong đó có bộ máy xử án của chúng. Nhưng ta thủ tiêu bộ máy chứ không thủ tiêu con người. Thực hiện chủ trương của Đảng và Hồ Chủ tịch, mở rộng khối đoàn kết toàn dân nhằm chống thực dân Pháp đang lăm le muốn nuốt chửng nước ta một lần nữa, Bộ Tư pháp tuyển lựa thẩm phán mới ngay cả trong số người đã làm công việc xét xử hay bào chữa dưới thời Pháp thuộc, Nhật thuộc, chỉ với điều kiện: là người tương đối lương thiện, lương thiện theo nghĩa thông thường.

Buổi lễ tuyên thệ cho các thẩm phán mới tổ chức long trọng ở “Lâu đài công lý” (Palais de justice) được vinh dự đón tiếp Bác. Phải nhớ rằng hồi đó tụi Việt Nam Quốc dân đảng đang quấy rối dữ tợn và cài người của nó vào cả cái “Lâu đài công lý”. Nhớ lại thế để chúng ta thấm thía về sự săn sóc đặc biệt của Bác đối với Ngành Tư pháp. Trong bài diễn văn kết thúc buổi lễ, ông Bộ trưởng Tư pháp [2] đã nêu gương đạo đức của Hồ Chủ tịch để anh em cố gắng noi theo, và đọc lời căn dặn, ngắn gọn thiết thực của Người, là:

1. Thẩm phán của nước Việt Nam mới phải “chí công vô tư”, không được để cho nén bạc đâm toạc tờ giấy.

2. Thẩm phán của nước Việt Nam mới xét xử là phục vụ nhân dân, chứ không phải là đèn trời soi xét.

Dựa vào lời dạy đó của Bác, anh em đã thề trung thành với Tổ quốc và tận tụy thực hiện nền công lý mới. Tuyệt đại đa số anh em đã giữ vững được lời thề đó, nêu cao đức thanh liêm và tác phong gần dân, làm nổi bật tính ưu việt của nền Tư pháp mới.

Rồi kháng chiến bùng nổ trên toàn quốc. Hầu hết thẩm phán, nhân viên tư pháp, một số luật sư rời Thủ đô, các thành thị ra nông thôn, lên rừng núi theo “Chính phủ Cụ Hồ”. Là người công dân yêu nước như mọi người yêu nước, ngoài công việc xử án, họ tích cực tham gia các công việc kháng chiến, nhưng trong tư tưởng vẫn phân biệt việc xử án với việc kháng chiến, coi một đằng là việc “chuyên môn”, một đằng là việc “chính trị”, cố giữ tính “vô tư” (một thứ vô tư siêu hình) trong công tác tư pháp. Giống hệt như lối suy nghĩ lúc đầu kháng chiến của số đông anh em văn nghệ sỹ, hăng hái theo bộ đội, vẽ tranh, làm báo, viết truyện để động viên chiến sỹ chiến đấu, mà vẫn không coi thế là sáng tác văn học nghệ thuật.

Bác Hồ đã ra công giáo dục cho anh em văn nghệ sỹ thấy rõ văn nghệ hay nhất, đẹp nhất, đúng nhất chính là thứ văn nghệ phục vụ kháng chiến đó, mà anh em quen gọi là “văn nghệ tuyên truyền”, với ngụ ý coi thường, nhưng Chính phủ và nhân dân thì đánh giá rất cao. Theo lời dạy của Bác và ứng dụng vào ngành mình, một số cán bộ tư pháp cũng nhận ra rằng Tư pháp có ích nhất và công bằng nhất phải là Tư pháp kháng chiến. Danh từ ghép này mới đưa ra làm đa số anh em bỡ ngỡ, không thông. Nhưng nhiều Hội nghị Tư pháp được mở ra ở Trung ương, ở địa phương. Anh em thảo luận sôi nổi và cuối cùng phấn khởi thống nhất nhận định Tư pháp “chí công vô tư” lúc này, tức là đem hết lòng yêu nước, căm thù giặc mà góp sức tiêu trừ việt gian phản quốc; trong vùng du kích thì giành quyền xử án với địch, tranh thủ nhân dân về với “Tòa án Cụ Hồ”, trong vùng tự do thì bảo vệ, củng cố hậu phương, giữ gìn đoàn kết trong nhân dân để mọi người yên tâm và hăng hái đánh giặc, cứu nước. Nhiều anh em giác ngộ cao về khẩu hiệu “Tư pháp kháng chiến”, đã xông vào địch hậu, mở phiên tòa lưu động ngay cạnh đồn bốt giặc để tuyên truyền, giáo dục nhân dân và lôi kéo ngụy binh trở về chính nghĩa; có người đã hy sinh tính mệnh, được anh em suy tôn là “Chiến sỹ trên mặt trận Tư pháp”, góp phần xương máu với các mặt trận kinh tế, văn nghệ, giáo dục, y tế... của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện oai hùng của dân tộc.

Đến đây, xin phép các bạn cho tôi nói lan man sang một chuyện khác, có lẽ hơi lạc đề, nhưng tôi nghĩ cũng không phải là không có ý nghĩa. Trong khoảng thời gian 1948 - 1949, chắc có bạn nhớ, đã nổ ra một cuộc tranh luận khá ồn ào trên báo chí về vấn đề “quyền độc lập của Tòa án đối với hành chính”, giữa một số cán bộ pháp lý và cán bộ chính trị. Đặt vấn đề này ra vào thời ấy, về phía anh em pháp lý là một việc làm sai. Thật ra, trong một hoàn cảnh khác, như hiện nay [3] chẳng hạn, mà đạo lý về quyền lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và mọi cơ quan nhà nước đã thấm vào nhận thức của mọi người, hơn nữa lại được ghi trong Hiến pháp như một nguyên tắc cơ bản của chế độ, trong hoàn cảnh mà bộ máy tư pháp đã được tổ chức đàng hoàng để bảo đảm cho việc xử án được đúng đường lối, hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân dân (với chế độ thẩm phán bầu, chế độ kiểm sát xét xử bên cạnh Tòa án, chế độ giám đốc xét xử...) thì đặt vấn đề phải tôn trọng và thực hiện triệt để nguyên tắc “quyền độc lập của Tòa án trong khi xét xử”, đã được ghi trong Hiến pháp là đúng và cần thiết, để vừa đề cao trách nhiệm của người thẩm phán nhân dân, vừa tạo thêm điều kiện cho việc xét xử được công minh. Nhưng trong hoàn cảnh những năm đầu của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà đặt vấn đề đó ra, mặc dầu có căn cứ vào Hiến pháp năm 1946, thì ít nhiều chỉ là muốn tách rời chuyên môn với chính trị.

Một việc làm rất nguy hiểm có thể đẩy việc xử án đi chệch đường lối cách mạng... Xét cho thấu tình thì, số anh em pháp lý đặt vấn đề đó ra chẳng qua cũng chỉ vì non kém về chính trị, vì còn bị ảnh hưởng của các nguyên tắc tương tự (trên ngôn từ) của Tòa án tư sản. Biết được chuyện rắc rối ấy, Hồ Chủ tịch ra lệnh cho phía cán bộ chính trị phải chấm dứt ngay cuộc tranh luận. Có lẽ Bác thấy vấn đề phức tạp, có kéo dài việc bàn cãi cũng không giải quyết được, mà còn có thể phương hại đến tình đoàn kết giữa hai khối cán bộ: chính trị và chuyên môn, trong lúc phải chĩa mũi nhọn đấu tranh vào giặc Pháp xâm lược...

Cuộc kháng chiến càng phát triển mạnh thì vấn đề bồi dưỡng sức dân trở nên bức thiết, nhất là đối với nông dân. Cần thi hành gấp và triệt để các chính sách giảm tô, giảm tức, chia lại công điền, tạm cấp ruộng đất của địa chủ vắng mặt, hoãn nợ, xóa nợ lưu cữu... Để cho Ngành Tư pháp vươn lên làm tròn được nhiệm vụ mới, năm 1950, Chính phủ mở riêng lớp học chính trị cho cán bộ tư pháp, nhằm xây dựng cho anh em lập trường nhân dân, nghĩa là trong khi xét xử phải chú trọng bảo đảm trước hết quyền lợi của đa số, thuộc các tầng lớp nghèo trong nhân dân. Hồ Chủ tịch thường xuyên cho ý kiến hướng dẫn việc học tập này. Đây là một bước ngoặt quan trọng của Ngành Tư pháp, đồng thời, nó đánh dấu một bước tiến không nhỏ trong lý luận pháp lý nói chung. Danh từ Tư pháp nhân dân, pháp lý nhân dân xuất hiện lần đầu tiên cùng với việc thành lập Tòa án nhân dân. Tư tưởng được chuyển biến tốt, anh em ngoài việc xử án có góp phần tích cực vào việc soạn thảo một số văn bản theo quan điểm pháp lý nhân dân. Điển hình là Sắc lệnh số 97 về một số nguyên tắc dân luật mà Hồ Chủ tịch đã ký ngày 22/5/1950, với Điều 1 quy định như sau: “Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân”; Điều 12: “Người ta chỉ được hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân”; Điều 13: “Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch, thì khế ước có thể coi là vô hiệu”.

Tuy nhiên phải nói rằng, mức tiến bộ anh em ta cũng chưa cao lắm. Phải đợi đến các cuộc chỉnh huấn chính trị năm 1953 thì anh em mới hiểu rõ hơn và thông suốt nội dung giai cấp của pháp lý và công lý. Cuối năm 1952, nhân dịp kỷ niệm toàn quốc kháng chiến, Hồ Chủ tịch phát biểu: “Đồng bào nông dân đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến, hy sinh nhiều nhất cho Tổ quốc. Thế mà đồng bào nông dân lại là những người nghèo khổ nhất, vì họ thiếu đất ruộng; giảm tô, giảm tức là một quyền lợi chính đáng của nông dân cũng chưa được thực hiện đến nơi đến chốn. Đó là một tình trạng rất không công bằng...”.

Qua các cuộc chỉnh huấn năm 1953, anh em chúng ta đã được thấy rõ phải đứng hẳn về phía nông dân, dùng công cụ Tòa án để ủng hộ đắc lực cho cuộc đấu tranh của nông dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, giành lấy ruộng đất cho nông dân, thì mới là công lý, mới là “chí công vô tư”.

Một số anh em được Đảng cho đi dự lớp chỉnh huấn ở Trung ương. Thật là một hạnh phúc lớn, vì ở đấy anh em được gặp Hồ Chủ tịch mấy lần. Hai ấn tượng sâu sắc còn in sâu trong tâm hồn anh em. Một là, bài giảng của Bác về hai phe: phe ông thiện và phe ông ác (như trong các chùa thờ Phật), phe chính và phe tà, phe thánh và phe quỷ, trên thế giới, trong nước và trong bản thân mỗi người. Bác đặt câu hỏi: “Đạo lý hợp với lương tri và lương tâm con người, là ta phải đứng vào phe nào và tiêu diệt phe nào?”. Ấn tượng thứ hai là hình ảnh hoa sen thơm ngát “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, Bác đã gợi lên để an ủi, động viên một số anh chị em học viên, vì trước đây bản thân hoặc gia đình là địa chủ, quan lại, nên sau khi học thì rất hổ thẹn và có tư tưởng bi quan.

Nhờ nhận thức về pháp lý và tình cảm cách mạng được nâng cao, một số anh chị em chúng ta rất phấn khởi được tham gia xây dựng cùng với Bác các Sắc lệnh quy định chính sách ruộng đất, trừng trị địa chủ chống pháp luật, tổ chức Tòa án nhân dân đặc biệt... và tham gia xây dựng Luật Cải cách ruộng đất để cuối năm 1953 Bác đem thuyết trình trước Quốc hội.

Cải cách ruộng đất đã hoàn thành, người cày đã có ruộng. Nhưng quyền tư hữu hãy còn thì vẫn còn bóc lột, vẫn còn bất công. Cho nên phải xóa bỏ tư hữu. Tư hữu xóa bỏ rồi, “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả những người lao động... Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình, nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả của cải vật chất và văn học, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Bởi vậy, mọi người phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình” (Hồ Chủ tịch nói chuyện nhân dịp cuộc vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961). Mọi người đều lao động nên đều bình đẳng, “đều có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình”. Đó là công lý ở mức cao nhất: Hoài bão đẹp đẽ chưa bao giờ thực hiện được, nay nhất định sẽ thực hiện được. “Cho nên mọi người phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Đó là đạo lý “Chí công vô tư” ở mức cao nhất, nguyên lý của đạo đức cộng sản chủ nghĩa.

Thưa các đồng chí và các bạn,

Vượt khỏi cơn sóng gió của đầu năm 1957 và được qua nhiều đợt nghiên cứu học tập về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản, nhất là cuộc chỉnh huấn mùa Xuân năm 1961, giới pháp lý chúng ta đã trưởng thành hẳn lên về lập trường tư tưởng.

Chúng ta nhận thức các khái niệm công lý, pháp lý, đạo lý - đạo đức gắn chặt chẽ với nhau và cho đến nay có một nội dung phong phú và cao siêu. Đạo lý - đạo đức là thuộc phạm trù lý tưởng, lý tưởng “chí công vô tư”. Công lý và pháp lý là sự thể hiện “chí công vô tư”, qua các thời kỳ cách mạng và mang một nội dung thích hợp với từng thời kỳ ấy. Hồ Chủ tịch nêu lý tưởng “chí công vô tư” và giáo dục lý tưởng đó cho anh em pháp lý chúng ta, từ mức thấp đến mức cao, nhằm võ trang cho chúng ta những quan điểm cần thiết thích hợp và thiết thực nhất để chúng ta vươn được lên, không quá sức vô ích, đủ để làm tròn nhiệm vụ mà Đảng đề ra theo từng bước đi của cách mạng.

Đến nay, miền Bắc đang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã dạy rằng, trong suốt thời kỳ quá độ, diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp, dai dẳng giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa, giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Giai cấp vô sản phải thực hiện chuyên chính để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh ấy. Chuyên chính thì cần đến pháp lý. Không những để bảo vệ chế độ, mà quan trọng hơn, để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Pháp lý là một công cụ đấu tranh lợi hại, hỗ trợ cho giáo dục chính trị và tư tưởng mà Đảng và Nhà nước võ trang cho quần chúng để chiến thắng mọi thái độ, hành vi không xã hội chủ nghĩa, trong nội bộ nhân dân, chiến thắng mọi tư tưởng lạc hậu trong bản thân mỗi người. Bác Hồ của chúng ta là con người chiến đấu, nên đánh giá cao pháp lý.

Công lý xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Có thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân lao động thì mới xây dựng được thành công chủ nghĩa xã hội. Pháp lý xã hội chủ nghĩa chủ yếu là để bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Muốn vậy, quần chúng phải có ý thức đầy đủ sử dụng vũ khí pháp lý để đấu tranh “tố cáo” mọi hành vi, nhất là của cán bộ, vi phạm quyền làm chủ của mình, những hành vi mà mỗi khi xảy ra, Bác nói - đều làm cho “tôi rất đau lòng!”. Nhà nước thì “phải giáo dục dân chủ cho nhân dân và trừng trị những cán bộ làm bậy” (Xem thư Hồ Chủ tịch gửi đồng bào Liên khu IV và Chỉ thị Ban Thường vụ Trung ương Đảng kèm theo, ngày 22/7/1950). Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Hà Tây ngày 10/02/1967, Bác lại nhắc: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm…”.

Bác rất quan tâm đến vấn đề dân chủ đối với nông dân. Trong mối quan hệ kinh doanh giữa Nhà nước với nông dân, Người đã nhiều lần phê phán nghiêm khắc lối làm ăn cửa quyền của một số cửa hàng mậu dịch, mua, bán ép uổng, bắt chẹt nông dân. Bác nhắc nhở: Chính phủ cần mua của hợp tác xã lương thực, nông sản. Chính phủ cũng bán cho hợp tác xã phân hóa học, nông cụ và sau này những máy móc nông nghiệp. Việc mua bán ấy phải có hợp đồng ký kết giữa Chính phủ và hợp tác xã. Sau khi đã ký hợp đồng, các hợp tác xã phải bảo đảm làm đúng hợp đồng, mà về Chính phủ cũng vậy. Như thế mới công bằng (Hồ Chủ tịch nói chuyện tại xã Đại Nghĩa, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, 1961 - Báo Nhân dân ngày 20/10/1961).

Nhưng dân chủ phải đi liền với tập trung. Như Lênin đã nói, tiến từ nền sản xuất nhỏ lên nền đại sản xuất xã hội chủ nghĩa thì phải làm sao để hàng chục triệu người hành động theo cùng một nhịp điệu, chấp hành cùng một chế độ, cùng thực hiện một kế hoạch thống nhất. Hồ Chủ tịch cũng đã dạy: “Tập trung là có trật tự, có kỷ luật… Trong xí nghiệp, lãnh đạo phải tập trung cả về kỹ thuật và chính trị và trên nền tảng dân chủ rộng rãi. Dân chủ và tập trung như hai chân, thiếu cái nào cũng hỏng, cũng không đi được” (Hồ Chủ tịch nói chuyện với công nhân Nhà máy Điện Hà Nội, ngày 08/11/1958). Muốn bảo đảm được nguyên tắc tập trung dân chủ trong xí nghiệp thì “phải phát động quần chúng công nhân” đấu tranh xây dựng những chế độ, nội quy và quản lý lao động, tài vụ, kỹ thuật… và chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ, nội quy ấy (Hồ Chủ tịch nói chuyện khi đến thăm Trường Cán bộ Công đoàn ngày 10/11/1958). Ngày 15/9/1968, khi tới thăm mỏ thiếc Cao Bằng, Người đã nói chuyện với anh chị em công nhân, viên chức như sau: “Các cô, các chú phải đặt ra cho tất cả mọi người phải giữ kỷ luật lao động, vi phạm khuyết điểm ấy, lần thứ nhất: xây dựng; lần thứ hai: xây dựng; nếu còn phạm lần thứ ba, phải làm gì?

- Phải kỷ luật ạ (mọi người trả lời) Bác nói tiếp: “Lần thứ ba phải kỷ luật, vì mỏ này là của nhân dân và của các cô, các chú, có người ăn mà làm biếng thì phải kỷ luật”.

Chấp hành đường lối của Hồ Chủ tịch về bảo đảm pháp chế trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, Nhà nước ta đang tiến hành nhiều cuộc vận động trong xí nghiệp, ở nông thôn, ngoài đường phố, để chấm dứt tình trạng vừa buông lỏng, vừa mệnh lệnh quan liêu trong quản lý xí nghiệp, hợp tác xã, quản lý kinh tế, quản lý đời sống.

Về mặt xã hội, Hồ Chủ tịch quan tâm nhiều đến vấn đề nam nữ bình đẳng. Luật Hôn nhân và gia đình đã được ban hành bảy năm rồi mà Bác còn nghe thấy chuyện đánh vợ xảy ra khá phổ biến. “Thật là dã man!”. Bác nói: “Sao khi thì anh anh, em em, khi thì lại thụi người ta!”. Đồng thời, Bác nhắc nhở chị em, có hàm cả ý phê bình nữa: “Các cô, các cháu (gái) thành niên phải tự mình phấn đấu, phải đấu tranh chống lại. Các cô, các cháu có pháp luật trong tay” (Bác nói chuyện với cán bộ Hà Tây ngày 10/02/1967). Và khi đến thăm Lớp Bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện tháng 3/1967, Bác lại nói: “Các cô, nhất là các cô ở huyện, phải đấu tranh mạnh. Vì các cô mà không đấu tranh thì những đồng chí nam có thành kiến với phụ nữ sẽ không tích cực sửa chữa”.

Phải đấu tranh, phải đấu tranh mạnh, dựa vào pháp luật mà đấu tranh, trong nội bộ nhân dân, chống mọi tàn tích cũ, xấu xa, lạc hậu, để xây dựng con người mới, cuộc sống mới, xây dựng nền kinh tế, văn hoá xã hội chủ nghĩa.

Tôi xin kể lại ở đây một câu chuyện nhỏ nhưng có ý nghĩa mà một vị đại biểu Quốc hội đã nêu trong bản tham luận của mình về vấn đề tuân thủ pháp luật nhà nước ở phiên họp Quốc hội đầu năm 1960. Câu chuyện như sau: Trong bản dự thảo báo cáo tổng kết việc xây dựng công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải gửi lên Hồ Chủ tịch duyệt, Ban Chỉ huy công trường có kiểm điểm những hiện tượng tham ô, lãng phí, vô trách nhiệm, vô kỷ luật, phê phán những hành động đó là “trái với đạo đức cách mạng”. Hồ Chủ tịch ghi thêm đằng sau câu đó mấy chữ “và pháp luật của Nhà nước”, lấy bút chì đỏ gạch đậm dưới câu “trái với đạo đức cách mạng và pháp luật của Nhà nước”, rồi gửi trả lại bản báo cáo cho Ban Chỉ huy công trường để dựa vào ý đó của Bác mà tiến hành tổng kết.

Gắn đạo đức với pháp lý, chúng tôi nghĩ đó là một phương châm đấu tranh cách mạng mà Hồ Chủ tịch đã vạch ra cho chúng ta, nhưng thử hỏi đã mấy ai thực hiện được đầy đủ cả hai mặt theo ý muốn của Người?

Thưa các đồng chí và các bạn,

Hôm nay, chúng ta họp kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh của Hồ Chủ tịch, với tất cả tình thương nhớ, kính yêu và lòng biết ơn thắm thiết đối với Người, tôi nghĩ rằng toàn thể anh em chúng ta không một ai không cảm thấy, có một yêu cầu đang thôi thúc chúng ta là tìm hiểu thấu suốt tư tưởng pháp lý của Người, hệ thống các quan điểm pháp lý của Người, để lấy đó làm kim chỉ nam hướng dẫn mọi công tác của chúng ta, làm sao cho việc xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật được chính xác, sắc bén, thích hợp với xã hội Việt Nam và con người Việt Nam, phục vụ được thiết thực sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước nhà.

Vấn đề này lớn lao vô cùng. Nó đòi hỏi phải dày công nghiên cứu, với trí tuệ tập thể có tổ chức và có lãnh đạo. Tôi quan niệm buổi sinh hoạt của chúng ta ngày hôm nay là buổi trao đổi sơ bộ đầu tiên xới vấn đề theo hướng ấy. Nhận thức như vậy và để góp phần chút đỉnh vào sự suy nghĩ chung, tôi vừa ôn lại sơ lược một số sự việc có liên quan đến quá trình phát triển của công tác tư pháp và pháp lý trong 25 năm nay, và liên hệ với các sự việc ấy, tôi cố gắng nhớ lại cái cơ sở lý luận và nội dung tư tưởng của công tác tư pháp và pháp lý mà Hồ Chủ tịch đã bồi dưỡng cho anh em chúng ta qua các bước chuyển biến của cách mạng. Khái quát lên từ các sự việc và nội dung tư tưởng nói trên, tôi xin mạnh dạn nêu một vấn đề, là: mối quan hệ giữa đạo đức và pháp lý, theo quan điểm của Bác. Vấn đề này cũng lớn lao vô cùng, có lẽ là một trong những vấn đề lớn nhất khi tìm hiểu tư tưởng pháp lý của Bác.

Đạo đức và pháp lý, từ bao đời nay trong các xã hội bóc lột là những hiện tượng đối kháng, vì pháp lý là của giai cấp thống trị, của một thiểu số áp bức và bóc lột, còn đạo đức, nhân đạo, đạo đức hợp với lương tri và lương tâm con người là của quần chúng lao động, của đa số nhân dân bị áp bức và bóc lột. Nhưng đến xã hội xã hội chủ nghĩa, thì đạo đức và pháp lý là thống nhất (tuy không đồng nhất), vì cả hai đều là của nhân dân lao động, cả hai đều hướng vào một mục đích: Xây dựng một xã hội công bằng không có người bóc lột người. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói như vậy.

Hồ Chủ tịch đã thực hiện mối quan hệ đó với những nét độc đáo như thế nào trong hoàn cảnh của xã hội Việt Nam, đối với con người Việt Nam và đã phát triển thêm lý luận Mác - Lênin về mối quan hệ đó như thế nào? Thú thật, tôi chưa có ý kiến rõ ràng. Có anh em gợi thêm cho tôi để nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa pháp trị và đức trị trong xã hội ta, căn cứ vào quan điểm của Bác, nặng về pháp trị hay nặng về đức trị? Cố nhiên pháp trị và đức trị theo nội dung mới. Tôi cũng chưa dám đặt vấn đề như thế.

Ở đây, tôi chỉ xin trình bày vài suy nghĩ còn vụn vặt, rút ra từ thực tiễn xây dựng con người pháp lý và công tác pháp lý ở nước ta mà tôi đã phác qua ở trên:

- Hồ Chủ tịch đã dạy chúng ta: Đạo đức như là nguồn của sông, như là gốc của cây, đạo đức là gốc của con người cách mạng. Chúng ta có thể hiểu thêm ý của Bác: Đạo đức là gốc của pháp lý. Thật vậy! Pháp lý ở đâu mà ra? Ai làm ra pháp luật? Ai thi hành pháp luật? Trước hết là cán bộ. Cho nên, muốn có pháp lý tốt thì phải có cán bộ tốt, cán bộ phải có lập trường vững vàng, tư tưởng thông suốt, phải “chí công vô tư”. Chúng ta đã thấy, Bác quan tâm đến việc bồi dưỡng lập trường tư tưởng và đạo đức cách mạng cho cán bộ tư pháp và pháp lý như thế nào, chính là vì thế. Ngược lại thì Tư pháp và pháp lý do Bác xây dựng, qua con người mà Bác bồi dưỡng, đào tạo, lại chính là để thực hiện đạo đức “chí công vô tư” của Bác. Đạo đức của Bác, pháp lý của Bác đều xuất phát từ gốc “chí công vô tư” và đều nhằm mục đích “chí công vô tư”. Theo tôi, đó là nét độc đáo nhất trong mối quan hệ hữu cơ giữa đạo đức và pháp lý mà Bác Hồ dạy cho chúng ta.

- Đối với Bác, có đạo đức là để hành động. Hành động thì phải chuẩn đích rõ ràng, phải có kỷ luật thúc đẩy. Cho nên, nếu đạo đức là gốc của pháp lý, thì pháp lý là chuẩn mực của đạo đức định ra, thích hợp với từng bước đi của cách mạng và để cho mọi người thấy đích rõ ràng mà noi theo và bắt buộc phải noi theo. Thực tiễn xây dựng pháp lý ở nước ta như đã trình bày ở trên chứng minh rằng, đi từ mức thấp đến mức cao, đi từ Tư pháp thanh liêm “vô tư” đến Tư pháp kháng chiến (có nội dung chính trị chống Pháp), đến pháp lý nhân dân (vừa chống thực dân Pháp, vừa hạn chế bóc lột), đến pháp lý dân chủ nhân dân (vừa chống đế quốc, vừa chống phong kiến), đến pháp lý xã hội chủ nghĩa (xóa bỏ hoàn toàn bóc lột và bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động). Qua các chặng đường ấy, nền công lý và pháp lý của nước ta luôn luôn thực hiện lý tưởng “chí công vô tư” của Bác, từ mức thấp đến mức cao, theo những chuẩn đích nhất định, để thúc đẩy xã hội Việt Nam tiến lên từng bước vững chắc trên con đường cách mạng.

- Đã vì lẽ như trên (đạo đức là gốc, pháp lý là chuẩn) cho nên để vận động nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối, nhiệm vụ cách mạng của Đảng và Nhà nước, Hồ Chủ tịch luôn luôn gắn đạo đức với pháp lý. Đạo đức là gốc của pháp lý nhưng không thay thế được pháp lý, không hướng dẫn hành động một cách chính xác và có hiệu lực chắc chắn. Trái lại, pháp lý mà tách rời đạo đức thì lung lay, làm cho hành động bị chuệch choạc, thậm chí mất hướng. Đạo đức và pháp lý như hai chân, thiếu một chân nào cũng không đi được. Sau này, khi của cải vật chất dồi dào và con người đã giác ngộ cao thì lúc ấy sẽ không cần pháp lý nữa; nhưng chuyện đó còn xa xôi lắm. Trong giai đoạn hiện nay của cách mạng thì phải thực hiện chế độ pháp trị, và “nhiệm vụ của Tư pháp (hiểu rộng là của pháp lý) là thực hiện chế độ pháp trị”, như Bác đã đề ra cho Ngành Tư pháp trong Hội nghị Tư pháp toàn quốc tháng 3 năm 1957 đã nói ở trên. Ta nhớ lại trong những ngày cuối cùng của đời mình, Bác còn săn sóc đến Bản điều lệ mới hợp tác xã nông nghiệp thì thấy Bác coi trọng pháp lý như thế nào.

- Bác thường căn dặn cán bộ khi thi hành pháp luật phải có lý, có tình. Bác phê phán nghiêm khắc thói quan liêu mệnh lệnh, chỉ biết đơn thuần lấy pháp luật, lấy mệnh lệnh hành chính mà đe dọa, mà ép buộc. Bác nói: “Phải kiên nhẫn giáo dục quần chúng một cách có lý, có tình” (Hồ Chí Minh - “Tiến lên giành thắng lợi mới”, Tạp chí Học tập số 02/1965). Nên chú ý Bác nói: “Có lý, có tình”, chứ không nói “có tình, có lý” như người ta thường nói, nghĩa là Bác ngụ ý rằng, lý trước, tình sau, tình trên cơ sở lý, lý là đạo lý, cũng là pháp lý.

Nói tóm lại, lấy đạo đức làm gốc, pháp lý làm chuẩn, xây dựng pháp lý trên đức “chí công vô tư”, và để thực hiện lý tưởng “chí công vô tư” trong vận động cách mạng luôn luôn gắn đạo đức với pháp lý, thi hành pháp luật một cách có lý, có tình. Phải chăng đó là những nét phát triển độc đáo mà Hồ Chủ tịch đã góp vào lý luận Mác - Lênin về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, xuất phát từ thực tiễn xã hội và lịch sử Việt Nam, thích hợp với nhận thức và tâm lý con người Việt Nam?

Thưa các đồng chí và các bạn,

Hồ Chủ tịch thường nói: “Muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Nhưng muốn có con người ấy, thì lấy ở đâu ra? Không phải từ trên trời rơi xuống…, mà chỉ có thể lấy từ xã hội hiện tại ra mà thôi, từ cái xã hội đã từng bị hàng ngàn năm chế độ phong kiến và gần một trăm năm chế độ thực dân, phát xít thống trị. Con người đó mang trong nếp sống và đầu óc biết bao nhiêu thói hư, tật xấu và tàn tích hủ bại. Cách mạng sử dụng con người bằng xương, bằng thịt ấy thì phải gột rửa, cải tạo nó. Thấm nhuần quan điểm thực tiễn của Lênin, Hồ Chủ tịch đã suốt đời tận tụy chăm lo việc giáo dục cán bộ, với tất cả lòng thương yêu, trìu mến.

Phương pháp giáo dục của Người, chúng ta đều rõ, là:

- Đối với cán bộ, thì kiên trì nhẫn nại: vừa uốn nắn, rèn giũa, tích cực, chi li, vừa rộng lượng dìu dắt, chờ đợi từng bước, không thúc bách, không nóng vội;

- Đối với bản thân mình thì nghiêm khắc, khắt khe cao độ, nêu gương trong sáng tuyệt đối cho cán bộ noi theo, nghiêm khắc cao độ nhưng vẫn rất tự nhiên, thoải mái, vì đã luyện thành thói quen, thành bản chất của con người của Bác.

Qua việc ôn lại một số bước chập chững và trưởng thành của giới pháp lý, chúng ta đã có thể thấy phần nào công ơn rèn giũa của Bác đối với cán bộ pháp lý, công ơn của Bác xây dựng pháp lý Việt Nam qua việc xây dựng con người pháp lý Việt Nam…

Thưa các đồng chí và các bạn,

Đạo đức của Bác chúng ta cao cả, rộng lớn quá. Có lẽ tôi đã lạm dụng quá nhiều thì giờ của các bạn, mà tôi vẫn cảm thấy là thất bại, không sao nói lên được cái mà tôi muốn nói: Đạo đức “chí công vô tư” của Bác Hồ.

Cuối cùng, xin kết thúc bằng một lời thú tội chân thành.

Nghĩ lại, đối với bao ân tình của Bác, sâu sắc, thấm thía như vậy, đối với lượng bao dung như trời biển của Bác như vậy, tôi chưa đền đáp được chút gì, mà lại còn có lúc phạm sai lầm làm cho Bác phải bận tâm, thậm chí bực mình, nay Bác đã an giấc ngàn thu, mỗi lần nghĩ lại, tôi cảm thấy dội lên trong lòng một sự hối hận không sao nguôi được!

Để chuộc tội xưa và đền đáp công ơn của Bác, trước các đồng chí và các bạn thân mến, tôi xin nguyện đem hết tâm trí nghiên cứu, thấm nhuần tư tưởng pháp lý của Bác, liên hệ với các đường lối, chính sách của Đảng ta, pháp luật của Nhà nước ta và lý luận pháp lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm của các nước bạn để cố gắng góp phần nhỏ mọn của mình cùng với các đồng chí và các bạn, xây dựng và thực hiện nền công lý và nền pháp lý xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dưới lá cờ chí công vô tư, lá cờ đạo đức nhân, nghĩa, trí, dũng của Bác - Bác Hồ muôn vàn kính yêu, người Cha ân cần và độ lượng, người thầy sáng suốt và tận tụy, người đồng chí, người bạn gần gũi chí tình của toàn dân và của mỗi người chúng ta.

Vũ Đình Hòe

Bộ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn 1946 - 1960

Trích: Hồi ký của đồng chí Vũ Đình Hòe, Nxb. Hội Nhà văn, tr.1146 – 1163 (Bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của Hồ Chủ tịch tại Câu lạc bộ Đoàn kết Hà Nội, ngày 12/5/1970).

 

Chú thích:

[1]. Xem Nội san Tư pháp số 3/1957.

[2]. Ngày đó tôi - Vũ Đình Hoè - đã được chuyển từ Bộ Quốc gia Giáo dục sang Bộ Tư pháp.

[3]. 1970: Miền Bắc đã chuyển sang giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chuyên chính vô sản.