Muốn quan niệm rõ ràng vấn đề làm luật và phương pháp làm luật, phải hiểu rõ luật pháp là gì, bản chất và nhiệm vụ của nó.
Trả lời một câu hỏi về tính chất của ngôn ngữ học, Staline có nói: “Cơ sở là chế độ kinh tế của xây dựng phát triển đến một giai đoạn nào đó. Thượng tầng kiến trúc là những quan điểm xã hội đối với chính trị, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật, triết học cho đến những chế độ về chính trị, pháp luật v.v… thích hợp với quan điểm.
Mọi cơ sở kinh tế đều có thượng tầng kiến trúc riêng thích hợp với nó, nghĩa là có chế độ chủ nghĩa và pháp luật riêng thích hợp với nó”.
“Cơ sở của chế độ phong kiến có cái thượng tầng kiến trúc của chính mình nó, có những quan điểm về pháp luật, chính trị v.v… của chính mình nó, cho đến những chế độ thích hợp với quan điểm ấy, cơ sở của chủ nghĩa tư bản có cái thượng tầng kiến trúc của chính mình nó; cơ sở của chủ nghĩa xã hội cũng có cái thượng tầng kiến trúc của chính mình nó” (Staline).
Nhiệm vụ của thượng tầng kiến trúc, của chế độ chính trị và pháp luật là như thế nào?
“Cái cơ sở đi gây dựng nên cái thượng tầng kiến trúc của chính mình nó là vì để cái thượng tầng kiến trúc phục vụ nó, để cái thượng tầng kiến trúc tích cực giúp họ thành hình và kiên cố hơn lên, để cái thượng tầng kiến trúc đấu tranh tích cực làm tiêu diệt hẳn cái cơ sở cũ cùng với thượng tầng kiến trúc của nó là cái đã lỗi thời rồi” (Staline).
Như thế, chúng ta thấy rằng nhiệm vụ của chế độ chính trị và pháp luật một mặt thủ tiêu cơ sở kinh tế cũ, chế độ chính trị và pháp luật cũ đã lỗi thời; một mặt khác là xây dựng cơ sở kinh tế mới tiến bộ hơn.
Nhưng theo quy luật tiến triển, cơ sở kinh tế mới tiến bộ này rồi cũng biến hóa. Khi một cơ sở biến hóa và bị tiêu diệt thì thượng tầng kiến trúc cũng biến hóa và bị tiêu diệt theo.
Sự biến hóa của thượng tầng kiến trúc, của chế độ chính trị và pháp luật thực hiện như thế nào? Từ tình trạng tích cực giúp đỡ nó (cơ sở) thành hình và kiên cố hơn lên nó dần ra “nguội lạnh” đối với cơ sở.
“Chỉ khi nào thượng tầng kiến trúc không chịu đóng vai trò phục vụ cho cơ sở, chỉ khi nào thượng tầng kiến trúc tự cải lập trường tích cực bảo vệ cho cơ sở mình chạy sang cái lập trường nguội lạnh đối với cơ sở mình, chạy sang lập trường coi các giai cấp như nhau thì nó sẽ mất cái bản chất của nó đi và không còn là thượng tầng kiến trúc nữa”.
Và như thế thượng tầng kiến trúc, chế độ chính trị và pháp luật bị tiêu diệt đi, và “khi sản sinh một cơ sở mới thì cũng theo đó mà sản sinh một thượng tầng kiến trúc mới thích hợp với cơ sở mới”.
Đó là quy luật phát sinh, tiến triển và tiêu diệt của thượng tầng kiến trúc, của chế độ chính trị và pháp luật. Đó là quan niệm căn bản về pháp luật của chủ nghĩa Mác-xít. Đó là kết quả của sự áp dụng phương pháp duy vật biện chứng vào sự tiến triển của xã hội loài người.
Căn cứ vào quan niệm căn bản đề ra trên đây chúng ta thấy rằng Nhà nước của xã hội phân chia giai cấp có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi giai cấp của nó. Quyền lợi căn bản là quyền lợi kinh tế. Để xây dựng và bảo vệ quyền lợi, chế độ kinh tế, cơ sở kinh tế của giai cấp nó, Nhà nước đặt ra thể lệ pháp lý, làm ra pháp luật.
Khi cách mạng thành công rồi, nghĩa là quyền thống trị của giai cấp cũ bị lật đổ, lực lượng cách mạng từ trong giai cấp tiến bộ mà ra, đặt ra chính quyền mới của cách mạng. Chính quyền cách mạng dùng hai loại phương pháp để thủ tiêu cơ sở kinh tế và thượng tầng kiến trúc là giáo dục bằng tuyên truyền, vận động và cưỡng bách bằng pháp luật.
Chính quyền và đoàn thể cách mạng đề ra tương quan sinh sản mới, tuyên truyền bãi bỏ cái cũ và giáo dục nhân dân theo cái mới. Một thí dụ trước mắt là công cuộc vận động nhân dân hợp công, đổi công, một hình thức làm việc tập thể để tiến dần đến sự tập thể hóa nông nghiệp. Đồng thời, chính quyền cũng đặt ra những tương quan sinh sản mới bằng luật pháp có tính cách bắt buộc. Một thí dụ trước mắt là công cuộc cải tạo theo trình độ thấp ở nước ta hay là theo trình độ cao ở Trung Hoa bấy giờ.
Quá trình xây dựng chế độ mới rất là phức tạp. Phức tạp vì phải bãi bỏ cái cũ và xây dựng cái mới. Phức tạp vì nó bao gồm nhiều mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa. Phức tạp vì nó phải dựa vào tương quan lực lượng giữa giai cấp cũ và mới, vì nó phải tùy theo tình trạng kinh tế, chính trị, văn hóa từng nơi từng lúc, vì nó phải tùy theo nhu cầu chiến lược, chiến thuật đấu tranh chính trị từng nơi, từng lúc. Cho nên, pháp luật đặt ra trong quá trình xây dựng chế độ mới này và để thúc đẩy quá trình chế độ mới này cũng thật là phức tạp.
Nó gồm có cái cũ, còn rơi rớt lại kề bên cái mới. Nhưng pháp luật về kinh tế cũng được ban bố với pháp luật, chính trị, văn hóa. Vì phải xây dựng không ngừng và nhanh chóng, cho nên pháp luật được đặt ra rất nhiều. Điều kiện đấu tranh chống đế quốc lại càng cho nó phức tạp hơn. Nhưng dù phức tạp đến đâu, nó cũng không mất một đặc điểm căn bản của nó mà lý thuyết Mác-xít đã đề ra được là nó nhằm mục đích gián tiếp hay trực tiếp, là xây dựng chế độ mới, phục vụ chế độ mới.
Cho nên chúng ta có thể nói rằng luật pháp phát sinh trong quá trình xây dựng chế độ mới, sản sinh ra để giúp chế độ mới “thành hình và kiên cố hóa lên”. Nó sản sinh trong sự xuất hiện chế độ mới đã đẻ ra nó, đồng thời nó thúc đẩy chế độ mới tiến lên và chế độ mới có tiến triển dần dần thì chính mình nó mới dần dần trưởng thành.
Chẳng cho như thế thì cũng chẳng được. Vì chính đó là bản chất và nhiệm vụ mà quy luật tiến triển của xã hội loài người phân chia ra giai cấp đặt ra cho chính mình nó.
Nhưng quá trình xây dựng và tiến triển của chế độ mới gồm nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn. Để đánh dấu những thời kỳ, giai đoạn đó, để bảo vệ công việc xây dựng đã qua và đang tiến hành, nhiều pháp luật lẻ tẻ, rải rác, nhất thời, bộ phận thực hiện, những đạo luật có tính cách tương đối lâu dài và căn bản hơn được đặt ra. Nó tổng hợp hiện trạng của chế độ về mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, nó cũng tổng hợp hiện trạng chế độ luật pháp. Nó tổng hợp để đánh dấu một sự tiến triển, để bảo vệ những kết quả đã thực hiện được. Đồng thời, nó mở đường cho sự tiến triển về sau nữa của chế độ. Nó tổng hợp kết quả đã qua, chính là để thúc đẩy sự tiến triển tương lai của chế độ. Đó là tính chất và nhiệm vụ của những hiến pháp, của những pháp điển.
Trên đây là những nhận xét căn cứ vào quá trình xây dựng và tiến triển của luật pháp đặt trong quá trình tiến triển của xã hội loài người. Nhưng pháp điển do Napoleon Đệ nhất đặt ra là gì? Nó là những đạo luật hình hay nó tổng hợp những kết quả mà giai cấp tư sản Pháp đã lượm được trong quá trình đấu tranh để phá vỡ chế độ phong kiến, chẳng những là từ lúc Cách mạng tư sản dân quyền Pháp bùng nổ năm 1789 mà từ mấy thế kỷ về trước nữa trong lúc giai cấp tư sản đã bắt đầu chôn nó, nghĩa là bắt đầu đấu tranh. Kết quả đó là tự do, nghĩa là tự do cả quyền tư hữu tài sản cho giai cấp tư sản, là bình đẳng cho giai cấp tư sản. Kết quả đó là tất cả một chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa tư sản đã thành hình rồi trong cơ sở căn bản. Nhưng pháp điển đó căn cứ vào những nguyên tắc pháp lý mà bản “Tuyên ngôn dân quyền” đã đề ra năm 1789. Bản tuyên ngôn chính là bản Hiến pháp cho chế độ dân chủ tư sản Pháp từ gần hai trăm năm nay. Những bản “Hiến pháp” tự do về sau tuy đã có nhiều hình thức và cả nội dung khác nhau nhưng vẫn không khác và không thể khác bản “Tuyên ngôn dân quyền” trong căn bản vì tất cả đều do giai cấp tư sản Pháp thật sự đặt ra và như thế là có nhiều trí óc thề bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản là quyền tư hữu tài sản.
Hơn nữa, chúng ta có thể nhận xét rằng, chính vì các pháp điển mà Napoleon Đệ nhất đã ban bố đầu thế kỷ XX đã tổng hợp được những kết quả đấu tranh đã qua của giai cấp tư sản Pháp, chính nhờ nền tảng pháp lý đã được tổng hợp như thế, chính nhờ sự bảo vệ vững chắc này mà lực lượng phản động phong kiến dưới đời Louis thứ 18 và Charles thứ 10 và những lực lượng cách mạng của giai cấp công nhân Pháp từ giữa thế kỷ XIX đến giờ không lay chuyển nổi sự thống trị về mặt chính trị và chế độ kinh tế của giai cấp tư sản Pháp. Những đạo luật dài hay ngắn về hình, hộ v.v… đã được ban bố tự do về sau, đã hoàn thành chi tiết, đã củng cố thêm lên chế độ kinh tế chính trị và văn hóa mà giai cấp tư sản đã xây dựng ra, mà bản Tuyên ngôn dân quyền và những pháp điển Napoleon đã đặt cơ sở pháp lý căn bản. Nó đã đánh dấu từng nơi, từng lúc - tùy theo điều kiện phát triển kinh tế của nước Pháp, điều kiện đấu tranh nhất là chống với giai cấp vô sản đương lên - sự tiến triển của giai cấp tư sản Pháp đã từ lập trường tiên phong bước sang lập trường phản động, đàn áp nhân dân Pháp, bán Tổ quốc cho Đức quốc xã trước và cho đế quốc Mỹ sau này. Những đạo luật ấy không khác và không thể khác được trong căn bản, không sửa đổi và không thể sửa đổi được trong căn bản những nguyên tắc pháp lý đó những pháp điển Napoleon đề ra. Và cũng vì pháp điển Napoleon là điển hình cho những pháp điển tư sản - một phần cũng vì nó là một trong những pháp điển tư sản đề ra trước hết - cho nên nó đã được xem như là kiểu mẫu cho các giai cấp tư sản Đức, Thụy Sỹ, Nhật, Thụy Điển… cả cho đến Trung Hoa sau này trong khi họ đặt nền tảng pháp lý cho sự thống trị của giai cấp họ.
Trên đây là một kinh nghiệm về quá trình xây dựng luật pháp trong một cuộc Cách mạng tư sản dân quyền, từ Hiến pháp cho đến những pháp điển, cho đến những đạo luật riêng biệt. Quá trình ấy là bộ phận khăng khít của quá trình xây dựng chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa tư sản Pháp. Quá trình ấy biến hóa tiên tiến trong từng thời kỳ, giai đoạn một, tùy theo quá trình biến hóa, tiến trình của chế độ dân chủ tư sản Pháp. Chính vì đó mà pháp điển Napoleon là một sự thành công cho giai cấp tư sản Pháp, và cho tới giữa thế kỷ XIX là một động cơ tiến bộ và toàn thể Âu châu, cho nên nó là một thành tích xây dựng pháp luật của nhân loại. Đó là một kinh nghiệm giúp cho chúng ta hiểu biết thêm về công việc xây dựng pháp luật. Kinh nghiệm này là tất yếu.
Chẳng có như thế thì cũng chẳng được. Vì do chẳng qua là bản chất và nhiệm vụ của pháp luật mà lý thuyết Mác-xít đã tìm ra theo như đã trình bày trên kia. “Khi sản sinh một cơ sở mới thì cũng theo đó mà sản sinh một thượng tầng kiến trúc mới thích hợp với cơ sở mới” (Staline).
Trên đây là một kinh nghiệm về một chế độ luật pháp tư sản đã ra đời, bây giờ cằn cỗi. Sau đây xin trình bày một kinh nghiệm xây dựng luật pháp của một giai cấp tư sản sinh sau đẻ muộn. Đó là chế độ luật pháp của giai cấp tư sản Trung Hoa.
Những pháp điển Trung Hoa đã được ban bố ra vào khoảng năm 1930, pháp điển gia đình, tài sản v.v… là những pháp điển tư sản. Nó tổng hợp thành tích đấu tranh của giai cấp tư sản Trung Hoa từ đầu thế kỷ XX để đả lại chế độ phong kiến lâu đời của Trung Hoa và trong một phần nào để chống đế quốc thực dân ở Đông Dương. Nó tổng hợp một sự tiến bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa. Nó tổng hợp những luật pháp mà giai cấp tư sản đã ban bố từ khi giành được chính quyền trong tay triều nhà Thanh.
Hiến pháp mà Quốc hội phản động do Tưởng Giới Thạch triệu tập đã thảo ra năm 1948 là một Hiến pháp tư sản. Nhưng đề ra rồi thì Hiến pháp lẫn pháp điển đã chết ngay. Chúng nó đã chết trước khi nó sản sinh, vì nhân dân, từ ngày Hồng quân công nông Trung Hoa thành lập, đã lên án chế độ dân chủ tư sản, vì trong thực tế kinh tế, chính trị, văn hóa Trung Hoa, chế độ dân chủ tư sản đã không xã hội, lớn mạnh được.
Kinh nghiệm xây nên luật pháp tư sản Pháp là một kinh nghiệm thành công, kinh nghiệm xây dựng nên luật pháp tư sản Trung Hoa là một kinh nghiệm thất bại. Thất bại vì nó không được gắn liền với sự xây dựng chế độ dân chủ tư sản Trung Hoa. Thật ra, bọn tư sản đặc quyền phản động Trung Hoa đã chủ trương nó, đã mong lấy nó làm phương tiện để xây dựng chế độ của chúng nó. Nó đã mong lấy Hiến pháp và pháp điển đó để làm công cụ thống trị cho bè phái của chúng nó. Nhưng chúng nó đã thất bại vì trong lúc chúng nó đặt ra pháp luật ấy thì cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa tư sản của chúng nó vừa chôn nó đã bắt đầu bị lung lay rồi, trước sự đấu tranh của nhân dân Trung Hoa để giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Trung Hoa lãnh đạo và trong điều kiện đó chế độ dân chủ tư sản Trung Hoa không thể lớn mạnh được. Sự thất bại của bọn phản động Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu cũng đồng thời là sự thất bại của các nhà chuyên môn luật học Trung Hoa đã từng học tập ở Mỹ châu, hay đã được sự giúp đỡ của các chuyên môn luật học tư sản Âu châu. Họ đã tách công việc xây dựng luật pháp rời khỏi công cuộc xây dựng chế độ kinh tế, chính trị và văn hóa. Hay là hơn nữa giác ngộ và quyền lợi của giai cấp họ, họ đã cố ý xây dựng pháp luật theo trí tưởng tượng của họ để lấy nó làm phương tiện đấu tranh giúp cho cơ sở kinh tế tư sản Trung Hoa thành hình và kiên cố hóa lên. Vô tình hay cố ý, chung quy kết quả cũng là một sự thất bại đau đớn vì đã không thấy - hay là đã thấy quá rõ ràng, bản chất và nhiệm vụ của luật pháp. Hiến pháp dân chủ tư sản Trung Hoa cũng như những pháp điển tư sản Trung Hoa tuy đã được thảo ra theo mẫu mực của Tuyên ngôn dân quyền Mỹ, Pháp và những pháp điển Napoleon chẳng những không thể xem như là những thành tích tiến bộ trong lịch sử nhân loại như Tuyên ngôn dân quyền Mỹ, Pháp và những pháp điển Napoleon, mà trái lại đã là những vết nhơ bẩn nhất trong lịch sử nước Trung Hoa và lịch sử xã hội loài người.
Một năm sau khi Quốc hội phản động Quốc dân đảng đã thảo ra Hiến pháp tư sản, Đông Đông Cương lĩnh của Hội nghị chính trị hiệp thương đã tổng hợp thành tích đấu tranh về kinh tế chính trị, văn hóa của nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Trung Hoa từ gần 30 năm về trước và đã đặt cơ sở pháp lý cho nước Trung Hoa mới. Tiếp liền theo đó là những đạo luật căn bản về quốc hữu hóa, đạo luật lao động, đạo luật thợ cày, đạo luật gia đình. Tất cả những đạo luật ấy đều được gắn liền vào công việc xây dựng nền dân chủ nhân dân chuyên chính, công việc xây dựng kinh tế quốc gia và văn hóa mới, và đồng thời gắn liền với phong trào rầm rộ đang đun sôi lên trong lúc này toàn nhân dân Trung Hoa để giao đúc họ “chống Mỹ, giúp Triều, giữ nhà, giữ nước” đấu tranh cho hòa bình thế giới.
Sau đây là một kinh nghiệm thành công nữa là kinh nghiệm xây dựng nền luật pháp xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sau Cách mạng tháng Mười.
Ngay sau khi Cách mạng tháng Mười vĩ đại thành công, vấn đề đặt ra trước mắt cho Đảng Cộng sản Liên Xô và chính quyền Xô Viết mới vừa được thành lập là đập tan chế độ cũ và đặt cơ sở căn bản cho chế độ mới.
Tháng 10 năm 1917, sau khi khởi nghĩa đã thành công ở Petrograd, Đại hội các Xô Viết lần thứ hai chuẩn y hai sắc lệnh tối quan trọng kêu gọi các nước đương tham chiến mở cuộc đàm phán hòa bình và thủ tiêu không bồi thường quyền tư hữu ruộng đất của bọn đại địa chủ. Bộ máy nhà nước cũ bị bãi bỏ. Quốc hội lập hiến bầu ra trước Cách mạng tháng Mười bị giải tán.
“Để làm mất hẳn những tàn tích cũ của chế độ phong kiến, của các đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong mỗi ngành hoạt động xã hội, những sắc lệnh đã được công bố thủ tiêu đẳng cấp; thủ tiêu sự kiềm chế dân tộc và tín ngưỡng, ban bố việc nhà thờ ly khai với Nhà nước, nhà trường ly khai với nhà thờ, quyền bình đẳng của phụ nữ và quyền bình đẳng của các dân tộc trên đất Nga”.
Cơ sở kinh tế mới được xây dựng trong ngành kỹ nghệ và trong nông nghiệp ở thôn quê. Lãnh đạo tất cả những thành tích vĩ đại kể trên trong thực tế đấu tranh xây dựng chế độ mới là Hiến pháp Xô Viết thứ nhất do Đại hội Xô Viết lần thứ 5 chuẩn y, thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội Xô Viết Nga và đặt nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (Hiến pháp tháng 7/1918).
Từ năm 1918 đến năm 1923, sự đấu tranh của nhân dân Liên Xô đã đánh bại can thiệp ngoại quốc, những lực lượng phản cách mạng bên trong và sau một năm phục hưng lại nền kinh tế lún bại trong thời kỳ nội chiến với chính sách tân kinh tế, vấn đề đặt ra là tập trung tất cả lực lượng nhân dân, dùng xã hội chủ nghĩa, để đoàn kết và phát triển các dân tộc trong xứ Xô Viết, Đại hội Xô Viết Liên Xô lần thứ nhất ban bố bản Hiến pháp Xô Viết thứ nhì thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Đó là một thắng lợi lớn lao cho chính quyền Xô Viết trong vấn đề dân tộc.
Từ năm 1925 đến năm 1936, sự kiến thiết xã hội chủ nghĩa đã thành công vĩ đại về mặt xây dựng kỹ nghệ xã hội chủ nghĩa và tập thể hoá nông nghiệp. Hai kế hoạch năm năm đầu đã thay đổi sâu sắc cơ cấu xã hội Liên Xô. Sự phân biệt và mâu thuẫn giữa thợ thuyền và nông dân, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa giai cấp không còn nữa. Hiến pháp Staline năm 1936 là một tiến bộ mới và lớn lao trong sự xây dựng nền pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nó tổng hợp thành tích đã qua trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa và đồng thời mở đường cho những thành tích lớn lao hơn nữa.
Luật hình và hộ Liên Xô cũng tiến triển theo con đường nói trên, nghĩa là theo trình độ và nhu cầu xã hội và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa về mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa. Luật hình bắt đầu là trấn áp triệt để phản cách mạng, những kẻ phạm đến tài sản quốc gia, những bọn phá hoại kỹ nghệ quốc gia và sự tập thể hóa nông nghiệp…
Kinh nghiệm xây dựng nền luật pháp trên đây là một kinh nghiệm thành công. Hiện nay, nền luật pháp Liên Xô là nền luật pháp tiến bộ nhất trên thế giới. Đảng Cộng sản Liên Xô, chính quyền Xô Viết nắm vững bản chất và nhiệm vụ của luật pháp, đã lấy nó làm công cụ đấu tranh xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và như thế đã xây dựng nền pháp luật Liên Xô được vô cùng tốt đẹp, lớn mạnh và khoa học.
Một kinh nghiệm thành công nữa là kinh nghiệm xã hội nền pháp luật nước Cộng hòa nhân dân Tiệp Khắc.
Nắm vững kinh nghiệm xây dựng nền luật pháp của Liên Xô, Đảng Cộng sản và nhân dân Tiệp Khắc đã nắm lấy bộ máy luật pháp để xây dựng xã hội chủ nghĩa. “Kinh nghiệm Liên Xô chứng tỏ cho lao động toàn thế giới rằng chẳng những có thể mà lại cần thiết xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa bằng cách sử dụng bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa như là một lực lượng quyết định để xây dựng xã hội chủ nghĩa” (Stefan Kays, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Tiệp Khắc).
Sự xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Tiệp Khắc, nhất là sau khi thắng lợi tháng 2 năm 1948 của nhân dân đã đánh tan sức đề kháng của bọn phản động trong nước do đế quốc giật dây nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa trong nền kỹ nghệ quốc gia, tập thể hóa nông nghiệp, củng cố chế độ chính trị dân chủ nhân dân, xây dựng văn hóa mới cho nền luật pháp Tiệp đã dần dần tùy theo trình độ và nhu cầu phát triển của chế độ quy định, đặt cơ sở pháp lý cho những vấn đề đó.
Thủ tướng Clement Gottwald đã nói: “Những luật pháp của chúng ta mà chúng ta dùng lấy để xây dựng một trật tự pháp lý xã hội chủ nghĩa, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân của chúng ta. Những luật pháp đó củng cố nền tảng của chế độ xã hội chủ nghĩa đang bắt đầu trong nền kinh tế, văn hóa và trong sự giao thiệp giữa con người và trong lương tâm của họ. Nó tạo ra một thái độ mới của người lao động đối với Nhà nước của họ, đối với xã hội, lao động và các công dân cùng một xứ sở; như thế nó làm cho con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của chúng ta được rõ ràng và dễ dàng hơn”.
Lời tuyên bố trên đây đã được thực hiện trong luật hiến pháp, luật hình và luật gia đình. Hiến pháp ngày 09/5/1948 của Tiệp Khắc đã xây dựng chế độ mới về hai mặt căn bản là chính trị và kinh tế. Về chính trị, nó định rằng chính quyền trong nước dân chủ cộng hòa Tiệp bắt nguồn gốc trong nhân dân. Về kinh tế, nó nhấn mạnh vào sự quan trọng và vai trò của tài sản tập thể xã hội chủ nghĩa và công nhận quyền tư hữu tài sản trong phạm vi nào mà nó không phải là một công cụ bóc lột những người lao động. Nó đặt ra nguyên tắc nền kinh tế kế hoạch hóa.
Năm 1950, Chính phủ Tiệp Khắc đã ban bố nhiều đạo luật hình nhằm mục đích bảo vệ chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân tài sản xã hội chủ nghĩa và sự xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của người lao động chân tay và trí óc, của con người, đồng thời giáo dục nhân dân theo tinh thần đời sống tập thể xã hội chủ nghĩa. Trong đạo luật gia đình ban bố tháng Chạp năm 1950, chúng ta thấy rõ ràng một quan niệm căn bản sau đây: sự xây dựng gia đình của nhân dân là pháp luật, chỉ có thể là một khâu chính để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, gia đình không phải một việc riêng cho cá nhân. Chính vì thế, Nhà nước can thiệp vào, bảo vệ đặc biệt gia đình để làm thế nào cho, nhờ sức lao động của mọi người trong gia đình, gia đình có thể làm tròn được nhiệm vụ của nó là củng cố chế độ xã hội và giáo dục con cái theo tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, Nhà nước can thiệp bằng cách bảo đảm sự sinh sống cho vợ chồng, con cái. “Mặt vật chất của đời sống của chúng ta có một sự quan trọng quyết định làm cho hôn nhân trở nên lâu dài, làm cho gia đình trở nên một cơ sở vững chắc cho sự phát triển của dân tộc. Sức lao động kiến thiết của nhân dân đã tạo ra một nền luân lý mới” (Antoine Cepicka - Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Tiệp Khắc). Cho nên nền luật pháp Tiệp Khắc, cũng theo lời ông A.Cepicka, củng cố lực lượng chính trị và kinh tế sẵn có của dân tộc và góp phần vào sự phát triển những lực lượng chính trị và kinh tế đó về sau này nữa.
Những kinh nghiệm trên đây xác nhận lý luận Mác-xít về pháp luật đã trình bày trên kia vì chính mình nó là kết quả của sự áp dụng lý luận ấy vào công tác xây dựng luật pháp cách mạng. Ánh sáng của những kinh nghiệm ấy giúp cho ta hiểu và quan niệm rõ ràng công việc lập pháp, công việc làm luật, công việc xây dựng và phát triển nền luật pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong quá trình xã hội tư tưởng pháp lý và xây dựng nền pháp luật Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, trong quá trình đấu tranh giữa tư tưởng pháp lý cũ và tư tưởng pháp lý mới, quan điểm pháp lý tư sản, quan điểm pháp luật cũ đã từng xuất hiện ra dưới nhiều hình thức.
Quan niệm ấy chủ trương xây dựng một nền luật pháp trên giai cấp, ngoài giai cấp, trên dân tộc, ngoài dân tộc, ngoài sự chiến đấu, sức chiến đấu của nhân dân, quan điểm ấy đặt cho luật pháp một nội dung “tự nhiên”, “trừu tượng”, “vĩnh viễn”, trên không gian, ngoài thời gian.
Cho nên đã có quan niệm làm luật là một công việc nghiên cứu, tra cứu, khảo cứu “chuyên môn”. Đã có chủ trương thảo và ban bố những “pháp điển” không căn cứ vào sức chiến đấu và nhu cầu chiến đấu của dân tộc đang thúc đẩy sự xây dựng kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng của nhân dân tiến triển từng ngày, từng tháng. Đã có chủ trương lấy những pháp điển của thực dân Pháp ban bố ra lúc trước sửa đổi một vài từ để biến nó thành ra những pháp điển cho dân tộc Việt Nam. Đã có chủ trương hướng nhãn quan mình trong bàn giấy, trong sự tra cứu giấy công và gian kho những tài liệu nước ngoài dù là của Liên Xô, của các nước dân chủ nhân dân để căn cứ vào đó thảo ra những dự án pháp điển cho dân tộc Việt Nam. Đã có chủ trương pháp luật từ trên xuống dưới, ngoài sự tham gia của nhân dân và sự vận động giáo dục nhân dân. Đã có những người kêu gào luật pháp nước nhà sao quá đại cường đến thế, quá khái quát làm cho người thi hành không biết căn cứ vào đâu mà xét xử. Đã có những người muốn đáp lại những nguyện vọng đó mà quy định từ chân tơ đến kẽ tóc, thật là tỉ mỉ, một cách tỉ mỉ xuất phát từ một số lý luận trừu tượng, thường thường là lý luận tư sản ngoài và trên thực tế.
Đó là những triệu chứng và hình thức của quan điểm pháp lý cũ và đó cũng không phải là những hiện tượng riêng gì cho nước ta mà là một hiện tượng chung đã xuất hiện trong mọi nơi mà sự đấu tranh giữa quan điểm cũ và mới đã đến giai đoạn quyết liệt. Cho nên, Phó Chủ tịch Chu Ân Lai đã viết như sau trong một chỉ thị về việc tăng cường công tác tư pháp nhân dân: “Muốn tham gia xây dựng Tư pháp nhân dân một cách chính xác cần phân biệt rõ pháp luật cũ và pháp luật mới. Pháp luật là công cụ để áp bức giai cấp. Pháp luật của chính phủ phản động Quốc dân đảng là công cụ của một tập đoàn thiểu số phản động dùng để áp bức quảng đại quần chúng nhân dân Trung Quốc. Trái lại, pháp luật nhân dân là ý chí của quảng đại quần chúng nhân dân, có mục đích giáo dục nhân dân tôn trọng trật tự xã hội dân chủ mới, đấu tranh với sự phá hoại của một số ít phần tử phản động, bảo hộ quyền lợi của quảng đại nhân dân. Hai căn bản rất khác nhau không thể lầm lẫn trong một quan niệm”.
Cho nên trong công việc làm luật, thảo ra những pháp điển, xây dựng và phát triển nền luật pháp, Việt Nam bây giờ chúng ta cần nhất trí một cách dứt khoát và sâu sắc về quan điểm trên đây. Đó là phương diện tư tưởng và chính đó là phương diện quyết định sự thành công hay thất bại của chúng ta.
Nắm vững quan niệm Mác-xít đó, nắm vững bản chất và nhiệm vụ pháp luật, chúng ta thấy nó là một phương tiện đấu tranh cách mạng và phải dùng nó làm một công cụ đấu tranh cho dân tộc. Có như thế chúng ta thấy rõ nội dung, phương pháp làm luật và hình thức của luật pháp cần phải đề ra. Phải gắn liền công việc làm luật với trình độ tiến triển của nhân dân, của chế độ và nhu cầu chiến đấu của dân tộc, nhu cầu xây dựng chế độ kinh tế, chính trị, văn hóa của nhân dân, để tăng cường lực lượng chiến đấu và phát triển trình độ của nhân dân.
Chính vì áp dụng phương châm trên, cho nên ngay sau khi Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam được thành lập, trước sự đe dọa của thế lực thực dân, Chính phủ đã ban bố một luật hình quan trọng trừng phạt kẻ làm tay sai cho Pháp. Để đoàn kết toàn dân chống âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp nhằm mục đích chính trị cần thiết lúc bấy giờ, cũng trong lúc đó Chính phủ đã ban bố sắc lệnh bảo vệ sức lao động của người công nhân và đã tuyên bố giảm tô cho nông dân, tuy là điều kiện để thực hiện nhưng chế độ đó lúc ấy chưa được đầy đủ.
Chính vì phải và chỉ có thể gắn liền công việc làm luật với trình độ và nhu cầu tiến triển của nhân dân về mọi mặt cho nên chúng ta không quy định sâu vào những điều tỉ mỉ, từ trong lấy luật trừu tượng, từ trong bàn giải mà xuất phát. Căn cứ vào tình hình thực tế, chúng ta đưa ra một số nguyên tắc căn bản để thúc đẩy các cuộc vận động đấu tranh và kiến thiết của quảng đại quần chúng…
Khuynh hướng quy định “tỉ mỉ” đó lấy lý luận trừu tượng mà xuất phát chẳng những biểu lộ một lập trường nhân dân và một quan điểm quần chúng thiếu sót, mà còn một phương pháp làm việc không khoa học, không lấy kinh nghiệm làm cốt cán.
Kinh nghiệm trong khi thi hành luật pháp là án lệ. Luật pháp biểu hiện cho những chính sách, đường lối chung của chính quyền về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Nó đặt ra những tương quan pháp lý căn bản và chung cho tất cả mọi công dân trong toàn thể quốc gia. Nó bao gồm một thời gian tương đối lâu dài. Cố nhiên trong khi đem đối chiếu với thực tế thời gian, địa phương và con người trình độ của họ và tương quan, giao thiệp của họ, nó vấp phải nhiều trường hợp cụ thể mà người thi hành pháp luật bắt buộc phải xử trí. Phương pháp để xử trí đó là án lệ. Trong khuôn khổ tinh thần pháp luật, nhằm mục đích là xây dựng chế độ và phụng sự nhân dân, án lệ bổ khuyết pháp luật, làm cho nó mềm dẻo hơn, phát triển nó vào sâu thực tế, bồi dưỡng pháp luật làm cho nó bớt đại cương và trừu tượng hơn, làm cho nó phong phú hơn.
Ví dụ, luật pháp chúng ta nhằm mục đích hạn chế sự bóc lột ở nông thôn. Chúng ta chưa thể đi đến trình độ thủ tiêu sự bóc lột này. Nhưng trong phạm vi chính sách đó, luật pháp đề ra giảm tô, giảm tức. Ngoài hình thức tô, tức còn nhiều hình thức khác để thực hiện sự bóc lột đó. Nhưng mà luật pháp chưa biết, không biết hay không cần biết vì hoặc đó là những hình thức phụ, hoặc là nó lẻ tẻ ở một vài địa phương... Những người thi hành pháp luật chính là có nhiệm vụ tìm ra những hình thức đó và căn cứ vào chính sách của Chính phủ mà xử trí với nó cho đúng mực. Và nếu kinh nghiệm ấy quý báu và cần dựa lên thành một chi nhánh chung thì nó sẽ trở nên điều văn trong luật pháp.
Án lệ của Tòa án tư sản khác hẳn với án lệ của chúng ta. Luật pháp tư sản là một phương tiện đàn áp từ trên đặt xuống. Án lệ tư sản thì về hình thức cũng do thực tế mà đề ra nhưng mà về nội dung thì nó xuất phát từ luật pháp tư sản hay nguyên tắc pháp lý tư sản, nó không ra khỏi khuôn khổ pháp lý tư sản được. Cho nên nó cũng phát triển pháp lý tư sản song theo hướng đàn áp và bóc lột tích cực và sâu sắc hơn.
Án lệ của ta, vì nhiệm vụ của luật pháp ta khác hẳn cho nên án lệ ta có thể và phải xây dựng từ dưới lên trên.
“…Do kinh nghiệm điển hình tổng kết kinh nghiệm của địa phương rồi dần dần làm ra những điều văn định chế độ và pháp luật, đi từng bước, từ giản đơn đến phức tạp, từ cho thông thường đến cho tế nhị, từ những quy phạm đơn lẻ cho đến làm thành nhiều pho hình phạt và dân pháp”.
Kinh nghiệm thực tế chẳng những giúp cho chúng ta phát triển luật pháp về nội dung mà lại còn xây dựng kỹ thuật pháp lý, một lĩnh vực mà các luật gia tư sản thường cho là hoàn toàn chuyên môn. Kỹ thuật pháp lý của chúng ta có mục đích là phục vụ nhân dân. Chúng ta tin tưởng vào sức sáng tạo của nhân dân. Cho nên xây dựng kỹ thuật pháp lý không thể căn cứ vào những nguyên tắc trừu tượng, từ trong trí óc của chúng ta mà thành công được. Nếu chúng ta chú ý rút kinh nghiệm trong khi thi hành pháp luật thì từ trong nhân dân sẽ nảy ra những kỹ thuật pháp lý, chẳng những là phong phú mà lại còn thích hợp với điều kiện hoạt động, điều kiện sinh sống của nhân dân.
Trên đây là tác dụng của án lệ đối với công cuộc xây dựng nền luật pháp, là vị trí án lệ đối với luật pháp.
Vì luật pháp phải được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm án lệ vững chắc cho nên chúng ta không thể và không nên thảo ngay và thảo bừa ra mặt cả các “pháp điển” nghĩa là các pho hình và hộ luật thật tình là hoàn bị cùng một lúc... Cũng như nội dung điều văn pháp luật phải và chỉ có thể đi từ giản đơn đến phức tạp, về hình thức pháp luật cũng phải đi từ những đạo luật lẻ tẻ, từ pháp quy tương đối chi tiết hơn đến những pho luật hoàn bị, đến những pháp điển.
Luật pháp được hoàn thành rồi, từ trong kinh nghiệm nhân dân, quần chúng mà ra thì phải trở lại quần chúng. Chúng ta phải nắm lấy pháp luật đó, phổ biến trong nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu cho rõ ràng nội dung pháp luật, lý do của các chỉ định. Nhân dân đã hiểu rõ được mục đích chung của pháp luật là làm cho kháng chiến mau thắng lợi, dân tộc mau độc lập, nhân dân hạnh phúc hơn thì chẳng những công tác giáo dục nhân dân đạt được kết quả, mà lại công tác chính trị là nâng cao tinh thần kháng chiến, yêu Tổ quốc, ghét kẻ thù cũng sẽ hiệu quả vô cùng.
Nhân dân tự giác chẳng những sẽ tôn trọng pháp luật ấy mà thôi, Nghị quyết sẽ đứng dậy mạnh mẽ hơn để bảo vệ một chế độ thích hợp với quyền lợi của nhân dân. Hơn nữa, nếu chúng ta gắn liền công việc giải thích pháp luật, giáo dục nhân dân với một công tác vận động chính trị cụ thể, tùy nơi, tùy lúc, tùy nhu cầu chiến đấu chống đế quốc (như phong trào chống Mỹ, giúp Triều, giữ nhà giữ nước ở Trung Hoa bây giờ), với một phong trào có thể huy động sôi nổi toàn thể nhân dân thì công việc xây dựng pháp luật được gắn bó chặt chẽ với sự chiến đấu của nhân dân, sự xây dựng chế độ, từng nơi, từng lúc, tùy theo nhu cầu chiến đấu chính trị.
Như thế là nắm vững quan điểm quần chúng, nghĩa là mọi việc thì phải xuất phát từ trong quần chúng mà ra rồi lại trở về quần chúng. Và có như thế chúng ta mới nối liền được liên quan biện chứng giữa chính trị, kinh tế và pháp luật, giữa chính quyền và nhân dân, giữa lý luận và thực hành.
Tóm lại, bốn điều mà chúng ta cần phải nhất trí cho dứt khoát và sâu sắc là sau đây:
Một là, nắm vững bản chất và nhiệm vụ của pháp luật theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin;
Hai là, nắm lấy luật pháp làm một phương tiện đấu tranh cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam hiện nay đang tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ;
Ba là, gắn chặt công cuộc xây dựng và phát triển nền luật pháp cách mạng Việt Nam với trình độ và nhu cầu phát triển của dân tộc trong sự chiến đấu vĩ đại này;
Bốn là, phải luôn luôn liên hệ mật thiết với quần chúng, rút kinh nghiệm từ trong quần chúng mà ra rồi lấy đó mà giáo dục, vận động quần chúng. Có như thế công việc xây dựng nền luật pháp cách mạng của chúng ta mới mang lại được nhiều kết quả tốt đẹp.
Trần Công Tường
Thứ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn 1948 - 1958
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp chế của Hội đồng Chính phủ giai đoạn 1972 - 1978.
(Bài viết tháng 10 năm 1951 được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III).