Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VII, thay mặt Đảng ta, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã phát biểu: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể nhân dân, và làm tròn chức năng của chuyên chính vô sản. Điều đó đòi hỏi phải khẩn trương xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh từng bước hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, nhất là phục vụ tốt cho việc triển khai thực hiện các nhà thầu cơ bản đã được vạch ra”.
Xây dựng pháp luật cho nước nhà là công tác rộng lớn bao gồm nhiều mặt hoạt động cả về lý luận và thực tiễn. Nó xuất phát từ nhu cầu của cách mạng trong mỗi giai đoạn lịch sử, mang tính đảng, tính giai cấp, tính khoa học cao, đồng thời cũng mang sắc thái của truyền thống dân tộc Việt Nam. Có xây dựng pháp luật mới đáp ứng nhu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Công tác xây dựng pháp luật của chúng ta diễn ra trong điều kiện nước ta đang từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nước ta lại mới giành được độc lập hoàn toàn. Cả nước bước vào thời kỳ quá độ mới được hơn 6 năm. Vì vậy mà quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có những khó khăn riêng, nhiệm vụ cải tạo và xây dựng có những nội dung phức tạp hơn. Những khó khăn to lớn và những điều mới mẻ đó ảnh hưởng nhiều đến công tác xây dựng pháp luật thống nhất và xã hội chủ nghĩa.
Về Nhà nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng thế giới từ lâu đã khẳng định nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là và phải là Nhà nước chuyên chính vô sản.
Về bản chất, thì Nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa đều giống nhau, vì vậy pháp luật của các nước đó đều thuộc phạm trù pháp luật giai cấp vô sản. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử khác nhau, Nhà nước chuyên chính vô sản ở mỗi nước có những nét đặc thù của nó. Những nét đặc thù này cũng thể hiện ở việc xây dựng pháp luật của mỗi nước trong thời kỳ quá độ.
Ở nhiều nước đã đi vào con đường xã hội chủ nghĩa, mục tiêu hàng đầu của Nhà nước chuyên chính vô sản là tiêu diệt những tàn dư của chủ nghĩa tư bản. Ở Việt Nam, tuy giai cấp tư sản không lớn, nhưng có bọn tư sản mại bản rất phản động. Ở miền Nam, do sống hai chục năm dưới chế độ thực dân mới của Mỹ - một chế độ cực kỳ phản động và hiếu chiến cho nên giai cấp tư sản mại bản Việt Nam gắn liền với guồng máy chiến tranh và lối bóc lột vô cùng man rợ của chủ nghĩa tư bản Mỹ, cũng cực kỳ tàn bạo. Vì vậy mà Nhà nước chuyên chính vô sản ở Việt Nam phải mạnh mới đủ sức tiêu diệt giai cấp này.
Ở Việt Nam những cái phi xã hội chủ nghĩa còn từ phía sản xuất nhỏ cá thể tới. Nhà nước chuyên chính vô sản Việt Nam phải cải biến những cái phi xã hội chủ nghĩa này thành xã hội chủ nghĩa. Cách làm không thể giống như cách làm đối với giai cấp tư sản, mà đòi hỏi phải kiên quyết thuyết phục.
Một đặc điểm rất quan trọng nữa mà ít lâu nay ta chưa phân tích đầy đủ là: ở các nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì như Lênin đã phân tích giai cấp công nhân có thể lợi dụng tính tổ chức, tính kỷ luật vốn có trong một nền sản xuất lớn; đồng thời, có thể lợi dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được. Ở những nước này, sức mạnh của chính quyền vô sản là ở tính tổ chức và tính kỷ luật của giai cấp công nhân đông đảo do nền công nghiệp lớn tạo nên, hơn nữa giai cấp công nhân ở đây lại có điều kiện rộng rãi sử dụng những thành tựu về văn hoá, khoa học, kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản.
Ở Việt Nam ta, do chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cho nên tính tổ chức và tính kỷ luật trong toàn xã hội còn rất yếu; hơn nữa những thành tựu về văn hoá, khoa học, kỹ thuật của xã hội cũ cũng không có bao nhiêu. Từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là chủ yếu mà đi lên, đông đảo người lao động chưa quen với tính tổ chức, tính kỷ luật, chưa quen với nếp sống có kỷ cương của đại công nghiệp, mà xây dựng những cái này là điều không ít khó khăn.
Lật đổ giai cấp thống trị cũ, chúng ta có thể làm nhanh với tinh thần cách mạng cao. Những cái đó, chúng ta có thể “làm bằng cái đà quật khởi cách mạng” - như Lênin nói. Nhưng xây dựng thì phải lâu dài, phải kiên trì.
Để trấn áp, thì sức mạnh là ở bạo lực cách mạng. Mạnh ở lực lượng vũ trang, ở các cơ quan chuyên chính, ở bộ máy bảo vệ pháp chế, ở sự giác ngộ của đông đảo quần chúng có ý thức về quyền làm chủ của mình.
Để xây dựng, thì sức mạnh phải ở hiệu lực Nhà nước, từ trên xuống dưới. Sức mạnh ở đây phải là tài tổ chức, tổ chức cơ cấu bộ máy, tổ chức lề lối làm việc, tổ chức quản lý. Sức mạnh ở đây là đưa mọi hoạt động của cơ quan nhà nước đi vào quy chế chặt chẽ. Muốn vậy, phải có một hệ thống pháp luật dựa trên cơ sở tính giai cấp, tính khoa học, tính dân tộc, làm cho mọi người tự giác tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở nước Nga Xô Viết trước đây, trong thời kỳ quá độ, để xây dựng pháp luật xã hội chủ nghĩa, Lênin đã phải đấu tranh chống hai khuynh hướng: Khuynh hướng tư sản muốn duy trì hoặc phục hồi pháp luật tư sản (những người theo khuynh hướng này cho rằng, pháp luật tư sản đã phát triển đến một giai đoạn hoàn chỉnh, chủ nghĩa xã hội chỉ việc sử dụng nó); và Khuynh hướng (cánh tả) do Tơ-rốt-xki, Bu-kha-rin đại diện. Những người theo khuynh hướng này cho rằng chủ nghĩa xã hội không cần pháp luật.
Lênin chăm lo quán triệt các nguyên tắc pháp chế vô sản cả từ việc xây dựng pháp luật cho đến kiện toàn tổ chức tư pháp.
Chỉ từ năm 1921 đến năm 1923, ở nước Nga Xô Viết, nhiều bộ luật mới đã được ban hành, trong đó có Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Ruộng đất, Bộ luật Lao động, hai bộ luật Tố tụng dân sự và Tố tụng hình sự (không kể nhiều pháp lệnh khác).
Ngay từ đầu, Lênin đã chú trọng xây dựng và kiện toàn hệ thống tư pháp từ trên xuống dưới, đã chỉ thị cải tiến công tác bào chữa, chấn chỉnh tổ chức các đoàn luật sư.
Để bảo đảm sự lãnh đạo có hiệu lực của Đảng cộng sản, tháng 01/1922, theo đề nghị của Lênin, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga đã ra Thông tư về “Quan hệ giữa các tổ chức Đảng và các cơ quan tư pháp”.
Việc xây dựng pháp luật phải được kế hoạch hoá, phải có tính tổ chức cao, việc xây dựng pháp luật phải đi vào quy chế chặt chẽ. Ở Liên Xô và các nước anh em khác đều như vậy. Ở Việt Nam ta cũng phải như vậy.
Trước hết, Nhà nước cần sớm ra một đạo luật về thẩm quyền và thủ tục ban hành các văn bản pháp luật, cơ quan nào có quyền ra những loại văn bản pháp luật nào? Cụ thể là những loại quan hệ nào phải do luật của Quốc hội điều chỉnh, những loại quan hệ nào có thể do pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước điều chỉnh? Những loại quan hệ nào thì do Hội đồng Bộ trưởng điều chỉnh? Hội đồng nhân dân có quyền ra những loại văn bản nào? Ủy ban nhân dân có quyền ra những loại văn bản nào? Đây không phải là vấn đề hình thức, mà là vấn đề nội dung hoạt động lập pháp và lập quy.
Công tác xây dựng pháp luật phải có kế hoạch hoá. Đây là một kinh nghiệm lớn. Hội đồng Nhà nước đang xét để phê chuẩn chương trình xây dựng pháp luật trong 5 năm 1981 - 1985 do Hội đồng Bộ trưởng đề nghị. Để thực hiện chương trình này, phải giải quyết tốt các mối quan hệ và lề lối làm việc giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức Đảng; giữa Hội đồng Bộ trưởng và Hội đồng Nhà nước và Quốc hội; giữa các cơ quan chuyên môn về pháp luật với nhau (Bộ Tư pháp và Ủy ban pháp luật của Quốc hội...).
Trong thời kỳ quá độ, chúng ta cần những loại pháp luật nào? Vấn đề này, cho đến nay chúng ta chưa bàn một cách có hệ thống và sâu sắc, cho nên cách làm còn chắp vá, cần đến đâu làm đến đấy, chưa thật có cơ sở lý luận và căn cứ vững chắc.
Theo chúng tôi, căn cứ vào nhu cầu và thực tiễn cách mạng nước ta, trong thời kỳ quá độ chúng ta nhất thiết phải xây dựng những loại pháp luật chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xây dựng các pháp luật về cải tạo xã hội chủ nghĩa
Ở Việt Nam ta, những cái phi xã hội chủ nghĩa không chỉ là kinh tế tư bản chủ nghĩa mà còn là sản xuất nhỏ, cá thể. Tất nhiên, chúng ta cũng phải cải tạo thành phần kinh tế tư bản tư nhân thành kinh tế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, còn phải cải tạo nền sản xuất nhỏ, cá thể thành sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Công tác này phức tạp hơn nhiều, khó khăn hơn nhiều, đa dạng hơn nhiều. Công tác này không thể tiến hành như đối với kinh tế tư bản chủ nghĩa. Bởi vì nó đụng đến người tiểu nông, tiểu thương, những người sản xuất cá thể khác. Vả chăng để có một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, công tác cải tạo phải tiến hành trên nhiều mặt, bao gồm nhiều bước đi thích hợp, liên tục, trong một thời gian khá dài. Pháp luật về cải tạo xã hội chủ nghĩa của chúng ta vì vậy sẽ rất đa dạng.
Thứ hai, xây dựng các pháp luật về tổ chức và quản lý
Trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, do chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cho nên cái mạnh về tổ chức, về kỷ luật, về khoa học kỹ thuật mà Lênin nói đến, về cơ bản chúng ta chưa có. Cái kỷ cương nhà nước thường có ở một xã hội có nền sản xuất lớn, chúng ta cũng chưa có. Vì vậy, pháp luật về tổ chức, chúng ta cần rất nhiều.
Tổ chức ở đây hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là tổ chức bộ máy, mà còn là tổ chức quá trình, cơ chế sản xuất, lao động, quản lý, đời sống xã hội, lối sống xã hội chủ nghĩa. Tổ chức ở đây bao gồm cả tổ chức về chính trị, về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Chỉ có đầy đủ pháp luật về tổ chức mới đưa mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội vào nền nếp, vào quy chế chặt chẽ - kỷ cương nhà nước nghiêm hay không, là do công việc này quyết định một phần rất lớn.
Thứ ba, xây dựng các pháp luật về kinh tế
Trong thời kỳ quá độ, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, nền kinh tế mới này chưa có những mầm mống trong xã hội cũ. Trong hệ thống pháp luật chung của cả nước, hệ thống pháp luật kinh tế chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Nghị quyết Đại hội IV của Đảng và nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương đều nhấn mạnh điểm này. Trong mấy năm gần đây, khi đi sâu vào xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, chúng ta càng thấm thía vì thiếu một hệ thống pháp luật kinh tế.
Thứ tư, xây dựng pháp luật về chống tiêu cực
Quy luật phổ biến là trong thời kỳ quá độ, hiện tượng tiêu cực có nhiều: chúng bắt nguồn từ xã hội cũ, chúng cũng sinh ra và đặc biệt trở nên phức tạp do sự non kém về quản lý của chúng ta.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa tư bản phát triển chưa cao, nhưng lại có giai cấp tư sản mại bản rất phản động. Cộng với những tệ nạn do chế độ thực dân mới của Mỹ - Nguỵ ở miền Nam để lại, những thủ đoạn xấu xa của tư bản, đế quốc có rất nhiều: đầu cơ, tích trữ, buôn gian, bán lậu, lừa đảo, phá rối thị trường, làm hàng giả, v.v... Nạn tham ô, ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, ăn cắp tài sản của công dân cũng khá phổ biến.
Các tàn dư của phương thức sản xuất phong kiến cũng không ít: bảo thủ, ích kỷ, hẹp hòi, tự tư tự lợi, đầu óc đặc quyền đặc lợi.
Nhưng dai dẳng hơn cả, khó cải tạo hơn cả, và luôn luôn là mầm mống đẻ ra những hiện tượng tiêu cực mới, có lẽ là ảnh hưởng không tốt của nền sản xuất nhỏ. Đó là những nếp nghĩ tủn mủn, những lề thói tuỳ tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật, vô chính phủ, vun vén tư lợi, biến của công thành của tư.
Sự phát triển của những hiện tượng tiêu cực trong mấy năm gần đây ở nước ta chính là kết quả tổng hợp của nhiều nguồn cộng lại.
Từ đó, chúng ta càng thấy rõ pháp luật chống tiêu cực phải chiếm một vị trí thích đáng trong hệ thống pháp luật của ta. Loại pháp luật này sẽ là một vũ khí sắc bén để chúng ta đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, từng bước loại trừ và hạn chế chúng đến mức thấp nhất.
Tất nhiên còn phải có những pháp luật về quốc phòng, về an ninh, về xây dựng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, xã hội mà nước xã hội chủ nghĩa nào cũng phải có.
Tuy vậy, do hoàn cảnh riêng của Việt Nam, vừa có hòa bình, vừa có thể xảy ra chiến tranh, do các thế lực phản động quốc tế có những mưu đồ đen tối chống Việt Nam, chống các nước xã hội chủ nghĩa, cho nên chúng ta càng phải đặc biệt quan tâm xây dựng pháp luật về quốc phòng, về an ninh, về chống văn hoá phản động và đồi truỵ.
Trong thời đại chúng ta, xây dựng pháp luật đã trở thành một khoa học, pháp luật của nhà nước ta phải có tính đảng và tính khoa học cao. Hai mặt này hoàn toàn không mâu thuẫn nhau, trái lại rất thống nhất với nhau.
Đường lối của Đảng là linh hồn của pháp luật. Tất cả 5 loại pháp luật mà chúng ta xây dựng đều phải quán triệt đường lối và các quan điểm của Đảng. Đi trệch đường lối đó, pháp luật sẽ mất phương hướng.
Hơn nữa, pháp luật của ta còn phải có sắc thái dân tộc. Vì pháp luật gắn liền với xã hội, với con người, với nếp suy nghĩ, với lối sống của một dân tộc. Muốn xây cái mới, cái tiến bộ, muốn chống cái phản động, lạc hậu, đều phải xuất phát từ xã hội Việt Nam, từ con người Việt Nam.
Thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, nắm vững khoa học pháp lý, nắm vững những đặc điểm của xã hội Việt Nam, con người Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm của Liên Xô và các nước anh em khác, nhất định chúng ta sẽ từng bước xây dựng được một hệ thống pháp luật đáp ứng được yêu cầu của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới này.
Nguyễn Ngọc Minh
Quyền Chủ nhiệm Ủy ban Pháp chế của Hội đồng Chính phủ giai đoạn 1978 - 1979
(Bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 11, năm 1981).