Thưa các đồng chí!
Trong bốn ngày qua, các đồng chí đã chăm chú nghe và thảo luận bản báo cáo của Ủy ban Pháp chế của Chính phủ kiểm điểm tình hình công tác pháp chế năm 1980 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ công tác pháp chế năm 1981. Các đồng chí đã nghe đại biểu của hai hợp tác xã nông nghiệp, hai xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, một công ty thương nghiệp cấp I và một ty thương nghiệp tỉnh giới thiệu kinh nghiệm phát động quần chúng xây dựng và thực hiện quy chế quản lý và hoạt động ở các loại đơn vị kinh tế cơ sở. Một bản sơ kết phát động quần chúng tham gia xây dựng và thực hiện quy chế an ninh, trật tự ở cơ sở cũng đã được trình bày trong hội nghị. Các đồng chí cũng đã nghe hai đồng chí Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân hai huyện giới thiệu kinh nghiệm về cách đặt và giải quyết vấn đề quản lý xã hội bằng pháp luật trên địa bàn huyện. Những báo cáo thực tế đó đã giúp chúng ta hiểu sâu hơn những nhiệm vụ công tác trong năm 1981 nêu ra trong báo cáo của Ủy ban Pháp chế của Chính phủ, và nhiều đồng chí đã tỏ ra hết sức thích thú. Qua cuộc thảo luận ở Hội nghị này, các đồng chí đã hoàn toàn nhất trí với bản báo cáo của Ủy ban, quyết tâm hoàn thành tốt những nhiệm vụ công tác pháp chế năm 1981 và đưa công tác của Ngành ta tiến lên một bước mới.
Tổng kết hội nghị, tôi xin phép phát biểu thêm một số ý kiến về ba vấn đề sau đây:
- Ra sức phấn đấu đưa công tác kế hoạch hoá xây dựng pháp luật từng bước đi vào nền nếp.
- Thực hiện tốt sự kết hợp từ trên xuống với từ dưới lên trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật.
- Đẩy mạnh việc xây dựng bộ máy Pháp chế, bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ công tác năm 1981 và chuẩn bị tốt để gánh vác trách nhiệm lớn của ngành ta trong những năm sau.
1. Ra sức phấn đấu đưa công tác kế hoạch hoá xây dựng pháp luật từng bước đi vào nền nếp
Nghị quyết số 08 của Trung ương Đảng đã nhấn mạnh đến việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật, tăng cường pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Gần đây, lại có một khẩu hiệu rất hay là: “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Đúng lắm! Quản lý xã hội bằng pháp luật xã hội chủ nghĩa, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa, đó là một trong những đặc trưng của xã hội mới, văn minh mà Đảng ta đang lãnh đạo xây dựng. Song muốn thế thì trước hết phải có pháp luật xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng pháp luật ngày càng hoàn chỉnh.
Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật của ta chưa được coi trọng đúng mức, và chưa phục vụ tốt yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, do đó, trên thực tế đã có phần hạn chế việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Công tác xây dựng pháp luật của ta lâu nay chưa thật sự trở thành một bộ phận hữu cơ của công tác quản lý ở các ngành, các cấp: phần lớn còn mang nặng tính tự phát, gặp đâu làm đấy, thiếu nhất quán, thiếu liên tục, mục tiêu không rõ ràng, chất lượng chính trị và nghiệp vụ chưa được chú ý đầy đủ. Về mặt nhận thức, nhiều cơ quan lãnh đạo và quản lý chưa thấy đúng và rõ sự cần thiết phải đưa công tác xây dựng pháp luật đi vào con đường kế hoạch hoá, gắn liền với yêu cầu và trình tự của công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Về mặt tổ chức và phương pháp, từ việc lập kế hoạch đến việc thực hiện kế hoạch, thì chưa có biện pháp cụ thể và hợp lý để tiến hành xây dựng pháp luật.
Trong điều kiện cả nước đã bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, tình hình đó rõ ràng là một hiện tượng không bình thường. Theo sau việc ban hành Hiến pháp mới, chúng ta cần sớm chấm dứt tình trạng đó, kiên quyết đưa công tác xây dựng pháp luật từng bước đi vào nền nếp kế hoạch hoá. Kế hoạch hoá công tác xây dựng pháp luật là một điểm then chốt trong nhiệm vụ công tác pháp chế năm 1981, bảo đảm cho Nhà nước ta thật sự tăng cường quản lý xã hội theo pháp luật, và tạo điều kiện cơ bản cho mọi công dân có thể sống và làm việc theo pháp luật.
Đưa công tác xây dựng pháp luật đi vào con đường kế hoạch hoá phải nhằm đạt tác dụng gì? Có 3 điểm chủ yếu:
+ Làm cho công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước ta đạt tính chủ động rõ rệt, cụ thể là:
Luôn luôn gắn liền với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chủ động thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách đó, nhằm chỉ rõ mọi người biết, trong quá trình xây dựng cuộc sống mới và tiến lên chủ nghĩa xã hội, cái gì được làm, cái gì không được làm.
Phục vụ tốt việc chỉ đạo tác chiến của các ngành và địa phương trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hoá và xã hội, tác chiến một cách có kế hoạch, có tổ chức, có lãnh đạo, đạt hiệu quả cao nhất.
Góp phần tạo được thế làm chủ của cơ quan quản lý nhà nước đối với các mặt công tác cụ thể, thoát khỏi tình trạng nhiều khi gần như thụ động và chạy theo đuôi cuộc sống.
+ Giúp cho công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước ta có tính tổ chức chặt chẽ, chấm dứt bệnh tuỳ hứng, và tuỳ tiện, tạo ra sức mạnh tổng hợp trong công tác quản lý theo pháp luật. Tính tổ chức đó thể hiện trên các mặt sau đây:
Xác định mục tiêu: trong từng thời gian, xây dựng pháp luật là nhằm mục tiêu gì? Giải quyết những vấn đề gì?
Quy định nội dung và thẩm quyền: cần có những văn bản pháp luật gì? Cơ quan nào phải dự thảo? Cấp nào ban hành?
Sắp xếp thời gian hợp lý cho việc hoàn thành từng văn bản pháp luật, bảo đảm cho các văn bản được ban hành đúng thời điểm cần thiết, ăn khớp với yêu cầu của công tác quản lý và cuộc sống thực tế.
Tổ chức việc phân công đúng đắn và việc phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, và tiến hành kiểm tra trong quá trình xây dựng pháp luật, đề ra biện pháp khắc phục các trở ngại.
Tất cả những mặt trên đây đều được nêu và giải quyết cụ thể trong kế hoạch hoá xây dựng pháp luật.
+ Bảo đảm tính khoa học trong công tác xây dựng pháp luật. Trên cơ sở kế hoạch hoá, tính khoa học đó được thể hiện trên những khía cạnh như:
Có dự kiến trước khi làm: nếu xây dựng pháp luật mà gặp đâu làm đó thì không còn gì khoa học nữa. Tiếc rằng lâu nay, trong công tác xây dựng pháp luật, chúng ta đã phạm khuyết điểm này trong một số trường hợp.
Tổ chức được việc nghiên cứu: tập trung trí tuệ, làm theo trình tự hợp lý, cân nhắc nhiều mặt, thông qua thảo luận tập thể mà tìm ra giải pháp tối ưu, do đó, có thể tránh được tình trạng nội dung hời hợt, chưa làm đã phải thay đổi, bổ sung v.v...
Tóm lại, đưa công tác xây dựng pháp luật đi vào nền nếp kế hoạch hoá chính là bảo đảm cho công tác này có tính chủ động, tính tổ chức, và tính khoa học ngày càng cao, từ đó mà tăng cường không ngừng chất lượng và hiệu lực của pháp luật xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Làm thế nào để thực hiện tốt việc kế hoạch hoá xây dựng pháp luật?
Vấn đề này đã được nói rõ trong Thông tư số 104/VP ngày 23/3/1981 và Thông tư số 117-TT/PC ngày 31/3/1981 của Ủy ban pháp chế của Chính phủ gửi các bộ và các Ủy ban nhân dân. Trong khi chờ đợi Quốc hội mới ra đạo luật về thẩm quyền và thủ tục ban hành các văn bản pháp luật, chúng ta cần tiến hành công tác kế hoạch hoá xây dựng pháp luật theo đúng những quy định trong hai thông tư đó. Ở đây, tôi xin nhấn mạnh thêm một số điểm:
+ Về lập kế hoạch xây dựng pháp luật
Trước mắt, các ngành và địa phương nên cố gắng xây dựng tốt kế hoạch hàng năm, cụ thể là kế hoạch năm 1981, và kế hoạch hàng năm nên chia thành hai kế hoạch 6 tháng, để tiện cho việc điều chỉnh khi cần thiết. Sau này, khi đủ điều kiện và đã có kinh nghiệm, có thể làm kế hoạch dài hơn. Xác định nội dung kế hoạch thì không nên ham nhiều, sẽ không thực hiện nổi; phải chọn lọc vấn đề, chỉ đề ra những cái gì nhất thiết phải làm. Kinh nghiệm cho thấy các vụ, cục ở một số ngành, các sở, ty ở một số địa phương thường hay đề nghị quá nhiều vấn đề theo kiểu “no dồn, đói góp”, rốt cuộc không làm xong đúng thời hạn, hoặc làm xong nhưng chất lượng thấp, không thể ban hành được. Vì vậy, Vụ (Ban) Pháp chế các bộ và Ban Pháp chế các tỉnh, thành phố cần có cách nhìn toàn diện, cân nhắc đúng cái gì nhất thiết phải làm, cái gì có thể hoãn lại, và phải có lượng sức thích đáng để điều chỉnh kế hoạch cho sát. Trong năm nay và một vài năm tới, nên tập trung chủ yếu vào các vấn đề quản lý kinh tế, an ninh và quốc phòng. Trong tình hình hiện nay, tính chiến đấu của công tác xây dựng pháp luật cũng như của công tác pháp chế nói chung, thể hiện trước hết và chủ yếu ở chỗ xác định đúng và ban hành kịp thời những văn bản pháp luật có nội dung sắc bén về những vấn đề nóng hổi trong quản lý kinh tế, quốc phòng và an ninh, hoàn toàn không phải là ở chỗ chạy theo những phản ứng cảm tính, mặc dù có khi là chính đáng - trước những hiện tượng vi phạm nhỏ ở mặt này hay mặt khác trong cuộc sống.
+ Về thực hiện kế hoạch xây dựng pháp luật
Lập được kế hoạch đúng là một bước quan trọng trong quá trình kế hoạch hoá xây dựng pháp luật. Nhưng quan trọng hơn nữa là tổ chức thực hiện kế hoạch đó, và vai trò của tổ chức pháp chế ngành cũng như địa phương trong giai đoạn này có ý nghĩa rất tích cực. Dưới sự chỉ đạo thống nhất của đồng chí Thứ trưởng thường trực hoặc của đồng chí Phó Chủ tịch thường trực, Vụ (Ban) Pháp chế các bộ hoặc Ban Pháp chế tỉnh, thành có trách nhiệm theo dõi tiến độ xây dựng văn bản, giúp đỡ nghiệp vụ và tham gia ý kiến vào dự thảo của các vụ, cục, sở, ty, kịp thời đề xuất những biện pháp cần thiết để xúc tiến công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm đạt chất lượng tốt và đúng thời gian đã quy định trong kế hoạch. Vì vậy, các ngành và các địa phương nhất thiết phải tăng cường bộ máy pháp chế của mình, coi đó là điểm then chốt nhất hiện nay để từng bước đưa công tác xây dựng pháp luật đi vào nền nếp kế hoạch hoá. Đồng thời, các tổ chức pháp chế ngành và địa phương phải tích cực cải tiến lề lối làm việc, chủ động phối hợp với các vụ, cục, sở, ty, tận tình đóng góp ý kiến, thậm chí giúp sức gỡ bí khi cần thiết.
2. Thực hiện tốt sự kết hợp từ trên xuống với từ dưới lên trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật
Lâu nay, công tác xây dựng pháp luật của ta vẫn làm từ trên xuống, và khi cần thiết, có tổ chức trưng cầu ý kiến của nhân dân về mặt này hay mặt khác. Các nước anh em cũng làm như vậy, và làm như vậy là đúng. Nhưng đối với Việt Nam ta, chúng tôi nghĩ rằng làm như thế là chưa đủ, là chưa đáp ứng đúng mức yêu cầu xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà Đại hội IV của Đảng ta đề ra trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải làm vừa từ trên xuống, vừa từ dưới lên, kết hợp cả hai mặt đó với nhau một cách chặt chẽ. Vấn đề này rất quan trọng. Cả xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật đều phải làm như vậy.
Quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thực chất là một quá trình xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Yêu cầu đó của cách mạng phải được thấu suốt trong tất cả các ngành, các cấp. Mỗi ngành, mỗi cấp không nên dừng lại ở chỗ nhắc đi nhắc lại yêu cầu đó như “tâm niệm” một câu “thần chú” mà phải đào sâu suy nghĩ, tìm cho được những phương thức hành động thích hợp để biến yêu cầu đó thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, thực hiện sự kết hợp giữa làm từ trên xuống với làm từ dưới lên chính là phương thức thích hợp để góp phần xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên lĩnh vực pháp chế.
Nội dung của chế độ nhân dân lao động làm chủ tập thể do Đại hội IV của Đảng ta đề ra là:
+ Làm chủ cả nước, làm chủ địa phương, làm chủ cơ sở, nhưng trong đó làm chủ cơ sở là điều kiện không thể thiếu được để có thể thật sự làm chủ cả nước và làm chủ địa phương. Điều này đồng chí Lê Duẩn đã nhiều lần nhấn mạnh và gần đây nhất đã nhắc lại trong bài phát biểu tổng kết Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng.
+ Làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, trong đó làm chủ xã hội có tác dụng quyết định nhất, bởi vì nó tạo ra những điều kiện thuận lợi để người lao động có thể từng bước làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân mình.
+ Làm chủ về chính trị, làm chủ về kinh tế, làm chủ về văn hoá và xã hội, trong đó làm chủ về kinh tế đóng vai trò then chốt, bởi lẽ nó bảo đảm cơ sở vật chất vững chắc cho việc làm chủ về chính trị và làm chủ về văn hoá, xã hội.
+ Làm chủ bằng Nhà nước, làm chủ bằng các đoàn thể, mà trong đó chủ yếu là làm chủ bằng Nhà nước.
Trong công tác pháp chế, chúng ta phải nắm vững nội dung trên đây, bảo đảm cho nhân dân lao động nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua xây dựng và thi hành pháp luật, có thể làm chủ chủ yếu bằng Nhà nước, làm chủ xã hội một cách toàn diện, làm chủ vững chắc về kinh tế, làm chủ thật sự ở cơ sở.
Kết hợp làm từ trên xuống với làm từ dưới lên trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật là một phương thức cụ thể trên lĩnh vực pháp chế để xây dựng trọn vẹn một chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Bởi vì, qua việc thực hiện tốt phương thức này, công tác pháp chế có thể góp phần tích cực vào những mặt sau đây:
+ Xây dựng và từng bước tăng cường chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên cả ba địa hạt (cả nước, địa phương, cơ sở), đồng thời dành vị trí quan trọng cần thiết cho vấn đề làm chủ cơ sở, từ đó mà biến việc làm chủ trên ba địa hạt thành một sức mạnh tổng hợp to lớn.
+ Xây dựng và từng bước tăng cường chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động đối với xã hội, thông qua tự giáo dục và giáo dục lẫn nhau, tự rèn luyện và rèn luyện lẫn nhau trong khuôn khổ pháp luật và kỷ cương xã hội tại cơ sở, ở địa phương và trên cả nước, mà dần dần xây dựng và tăng cường quyền làm chủ tập thể đối với bản thân và đối với thiên nhiên.
Với việc trực tiếp tham gia thể chế hoá chế độ làm chủ theo phương thức kết hợp làm từ dưới lên với làm từ trên xuống, nhân dân lao động có thể thật sự làm chủ tập thể chủ yếu bằng Nhà nước, trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”.
+ Hơn nữa, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ, các vùng phát triển không đồng đều và có những điều kiện thực tế khác nhau, trình độ quản lý, kinh nghiệm sản xuất, thói quen sống và làm việc của nhân dân cũng không giống nhau. Trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật xã hội chủ nghĩa, nếu chúng ta dừng lại ở mức độ làm từ trên xuống, không kết hợp với làm từ dưới lên, nhằm biến pháp luật do trên ban hành thành pháp luật của bản thân quần chúng ở mỗi cơ sở, thì quyền làm chủ tập thể không thể tránh khỏi bị hạn chế, chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động sẽ không được trọn vẹn.
Vì vậy, dù có khó khăn phức tạp đến mấy đi nữa, chúng ta cũng phải ra sức khắc phục những lề thói cũ trong việc xây dựng và thi hành pháp luật, kiên quyết thực hiện và từng bước hoàn thiện phương thức kết hợp làm từ trên xuống với làm từ dưới lên. Chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể thật sự tăng cường quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để mọi công dân Việt Nam “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Thực hiện phương thức kết hợp làm từ trên xuống với làm từ dưới lên như thế nào?
Để thực hiện phương thức này, thì đi đôi với việc xây dựng và ban hành pháp luật từ trên xuống, cần phát động quần chúng, theo sự hướng dẫn của trên, xây dựng và thực hiện những quy chế quản lý và hoạt động ở các đơn vị kinh tế cơ sở, những quy chế công tác ở các đơn vị hành chính và sự nghiệp. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang lấy việc cải tiến quản lý kinh tế làm trọng tâm, cho nên việc phát động quần chúng xây dựng và thực hiện các quy chế quản lý và hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở có tác dụng rất quan trọng. Điều này đã được nêu rõ trong Nghị quyết số 09 của Trung ương Đảng, chúng ta cần đặc biệt chú ý.
Những đơn vị cơ sở là những tế bào xã hội, trong đó công dân có những lợi ích giống nhau về mặt này hay mặt khác, và đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Những quy chế quản lý, hoạt động và công tác của những đơn vị cơ sở đó chính là pháp luật ở cơ sở, do bản thân quần chúng dùng trí tuệ tập thể và dựa vào sự hướng dẫn của trên để xây dựng ra. Nó thể hiện cụ thể quyền làm chủ tập thể trực tiếp của người lao động ở ngay đơn vị gần gũi nhất mà họ sống và làm việc hàng ngày. Nó có tác dụng ràng buộc đối với mọi người trong đơn vị, ai nấy đều có trách nhiệm phải hành động đúng theo quy chế, bảo đảm cho lợi ích tập thể và cá nhân, quyền và nghĩa vụ của mỗi người, cũng như quan hệ đúng đắn giữa các đơn vị với tư cách là tế bào xã hội, tất cả những cái đó đều được nhất loạt tôn trọng.
Quá trình phát động quần chúng xây dựng và thực hiện quy chế ở các cơ sở cũng là quá trình tuyên truyền, giáo dục quần chúng về pháp luật xã hội chủ nghĩa, pháp luật chung và pháp luật ở cơ sở. Đó cũng là quá trình quần chúng cùng nhau rèn vũ khí pháp luật đi đôi với học cách sử dụng vũ khí pháp luật, nhằm phục vụ lợi ích của đất nước, của tập thể, và của bản thân. Dựa vào quy chế đó, mọi người tự giác và cùng nhau chủ động thi hành pháp luật, tự kiểm tra và kiểm tra lẫn nhau, giúp nhau tránh những vi phạm, kịp thời phát hiện những điểm chưa sát hoặc thiếu sót, phát hiện những vấn đề mới, để sửa đổi và bổ sung.
Quy chế quản lý, hoạt động và công tác của các đơn vị cơ sở do quần chúng xây dựng, sau khi được sự phê chuẩn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sẽ trở thành một bộ phận trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, hệ thống này đi từ hình thức cao nhất là Hiến pháp của Nhà nước đến hình thức thấp nhất là quy chế của cơ sở, tất cả hợp thành kỷ cương chung và làm khuôn khổ cho mọi người trong xã hội sống và làm việc một cách có tổ chức, nhằm đưa đất nước vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời gian tới, tham khảo những kinh nghiệm bước đầu của những đơn vị điển hình được giới thiệu tại Hội nghị này, và căn cứ vào hai bản đề cương hướng dẫn của Ủy ban Pháp chế của Chính phủ, Vụ (Ban) Pháp chế các ngành và Ban Pháp chế các địa phương cần báo cáo với thủ trưởng ngành và Ủy ban nhân dân địa phương, đồng thời phối hợp với những cơ quan có liên quan để có kế hoạch thí điểm hoặc mở rộng thí điểm về phát động quần chúng xây dựng và thực hiện quy chế quản lý, hoạt động và công tác ở các đơn vị cơ sở.
Trong năm nay, cần chú trọng trước hết hai vấn đề sau đây:
+ Phát động quần chúng xây dựng và thực hiện quy chế quản lý và hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhất là hợp tác xã nông nghiệp và xí nghiệp công nghiệp quốc doanh.
+ Phát động quần chúng xây dựng và thực hiện quy chế quản lý an ninh và trật tự của các xã, phường, đặc biệt là ở những thành phố lớn và những vùng xung yếu (sẽ có kế hoạch cụ thể của Bộ Nội vụ và Ủy ban Pháp chế của Chính phủ).
Đó là hai mũi nhọn trên lĩnh vực công tác pháp chế nhằm hình thành hai gọng kìm phục vụ nhiệm vụ chống các hiện tượng tiêu cực, thực hiện hai Nghị định số 182-CP và số 217-CP của Hội đồng Chính phủ, đồng thời phục vụ nhiệm vụ cải tiến quản lý kinh tế theo các Nghị quyết 6, 8, 9, 10 của Trung ương Đảng, và Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị. Rõ ràng đây sẽ là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp, bền bỉ, phải tiến hành với tinh thần cách mạng tiến công trong vài ba năm, thì mới có thể đạt được kết quả mong muốn.
Phải từ công tác xã hội và thực hiện quy chế quản lý và hoạt động ở các đơn vị kinh tế cơ sở, quy chế quản lý an ninh và trật tự ở các xã, phường mà tác động đến các cấp quản lý bên trên (huyện, tỉnh, sở, ty v.v…), thúc đẩy các cấp đó cũng phải tăng cường quản lý bằng pháp luật, thì sẽ giúp các đơn vị cơ sở nâng cao chất lượng quản lý, dần dần đưa công tác quản lý của mình đi vào nền nếp vững chắc.
3. Đẩy mạnh việc xây dựng bộ máy pháp chế, bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ công tác năm 1981 và chuẩn bị tốt để gánh vác trách nhiệm lớn của ngành ta trong những năm sau
Trong năm 1981, chúng ta nhất thiết phải coi trọng đầy đủ và đẩy mạnh việc xây dựng bộ máy pháp chế ở các bộ và các địa phương. Đối với các bộ, thì trước hết là ở các ngành quản lý kinh tế; đối với các địa phương, thì trước hết là ở cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương.
Nhiệm vụ chủ yếu của bộ máy pháp chế ở các địa phương đã được nói rõ trong Thông tư số 470-PC/VP ngày 25/12/1980 của Ủy ban Pháp chế của Chính phủ. Ở đây, tôi không nhắc lại, chỉ xin nhấn mạnh đến bộ máy pháp chế của các bộ. Ở các bộ có khối lượng lớn về công tác pháp chế thì tổ chức thành Vụ Pháp chế, ở các bộ mà khối lượng công tác pháp chế bình thường thì tổ chức thành Ban Pháp chế. Nhiệm vụ chủ yếu của Vụ (Ban) Pháp chế ở các bộ là:
+ Tổng hợp và tổ chức thực hiện kế hoạch xây dựng pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của ngành, giúp đỡ về nghiệp vụ pháp lý cho các vụ, cục, ban của Bộ trong việc thực hiện kế hoạch đó.
+ Thẩm tra tính hợp pháp của các văn bản pháp luật do các sở, ty thuộc ngành ban hành, đề nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ những văn bản không phù hợp với pháp luật hiện hành.
+ Hướng dẫn về mặt nghiệp vụ cho các tổ chức pháp chế của các cấp quản lý thuộc ngành.
+ Chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý của ngành cho cán bộ, nhân viên trong ngành và cho quần chúng nhân dân.
+ Làm cố vấn pháp luật cho thủ trưởng ngành.
Vụ (Ban) Pháp chế do Bộ chủ quản lãnh đạo, đồng thời chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ của Ủy ban Pháp chế của Chính phủ.
Sau khi có Hiến pháp mới, Nghị quyết số 08 của Trung ương Đảng, và Nghị quyết số 35-CP ngày 09/02/1981 của Hội đồng Chính phủ, việc xây dựng bộ máy pháp chế ở các bộ và các địa phương đã trở thành một vấn đề cấp bách. Không làm tốt việc này thì không thể bảo đảm thực hiện một chức năng của các cơ quan nhà nước là quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện cho mọi công dân được sống và làm việc theo pháp luật, phục vụ yêu cầu tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để đẩy mạnh việc xây dựng bộ máy pháp chế ở các bộ và các địa phương, đề nghị các đồng chí chú ý mấy điểm sau đây:
+ Tổ chức pháp chế phải là một cơ quan trực thuộc Bộ (tương đương cấp vụ) hoặc Ủy ban nhân dân địa phương (tương đương cấp ty, sở), không phải là một bộ phận chính trong Văn phòng hay một tổ chức nào khác của Bộ, của Ủy ban nhân dân.
+ Biên chế của bộ máy pháp chế sẽ do Bộ hoặc Ủy ban nhân dân quyết định cụ thể, tùy theo khối lượng công tác pháp chế của ngành hay của địa phương.
+ Tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ: vì cán bộ pháp lý trung học, đại học được đào tạo chính quy còn ít, trước mắt cần chú ý chọn số cán bộ đang công tác ở các vụ, cục, sở, ty có trình độ chính trị khá, có kinh nghiệm công tác quản lý, có đầu óc tổ chức, có khả năng tiếp thu nhanh chóng kiến thức pháp luật.
+ Muốn thúc đẩy công tác pháp chế tiến nhanh, nên chỉ định rõ ràng một đồng chí lãnh đạo Bộ hoặc Ủy ban nhân dân trực tiếp phụ trách pháp chế (tốt hơn hết là đồng chí thủ trưởng thường trực) và có cách sử dụng tốt tổ chức phương pháp trong quản lý.
+ Vụ (Ban) Pháp chế bộ và Ban Pháp chế địa phương cần có quy chế công tác cụ thể do Bộ hoặc Ủy ban nhân dân thông qua để làm cơ sở đưa dần công tác vào nền nếp.
+ Cần đặt quan hệ chặt chẽ giữa Bộ, Ủy ban nhân dân, Vụ (Ban) Pháp chế bộ và Ban Pháp chế địa phương với Ủy ban Pháp chế của Chính phủ.
Trong năm qua, nhờ sự quan tâm của lãnh đạo và sự cố gắng của bản thân, toàn ngành pháp chế của chúng ta đã đạt được một số kết quả tốt trong công tác. Đồng thời, chúng ta cũng còn nhiều nhược điểm và thiếu sót. Phải ra sức khắc phục những nhược điểm và thiếu sót đó, nhưng không nên nôn nóng sốt ruột, mà phải làm một cách có kế hoạch, có tổ chức, với tinh thần cách mạng tiến công.
Trong thời gian tới, cần tập trung làm tốt công tác kế hoạch hóa xây dựng pháp luật, coi trọng việc phát động quần chúng xây dựng và thực hiện các quy chế quản lý, hoạt động và công tác ở các đơn vị cơ sở, tiếp tục đi sâu vào pháp luật kinh tế, pháp luật về an ninh và quốc phòng, tiến hành kiểm tra có trọng điểm việc thi hành pháp luật, đẩy mạnh xây dựng tổ chức, bồi dưỡng cán bộ và tăng cường hoạt động của ngành pháp chế.
Tất cả những việc đó đều khẩn trương và có ý nghĩa rất quan trọng. Đề nghị các đồng chí sẽ tập trung lực lượng, chỉ đạo sắc bén, có kế hoạch chu đáo, có phân công rõ ràng và phối hợp chặt chẽ, chủ động, chịu khó và có quyết tâm cao trong công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 1981 và tạo ra cơ sở vững chắc cho ngành ta phát triển thuận lợi trong những năm sau.
Trần Quang Huy
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp chế của Hội đồng Bộ trưởng giai đoạn 1980 - 1981
(Lược ghi bài nói tổng kết tại Hội nghị Pháp chế toàn quốc ngày 11/4/1981, Lưu trữ tại Bộ Tư pháp).