Bước tiến mới trong công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước ta
Sign In

Bước tiến mới trong công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước ta

Thực hiện kế hoạch xây dựng pháp luật 5 năm (1981 - 1985), Hội đồng Bộ trưởng đã trình Quốc hội bản dự thảo Bộ luật Hình sự gồm hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm. Quốc hội, trong kỳ họp tháng 6 năm 1983 đã thông qua sơ bộ phần chung, trong một kỳ họp tới, sẽ xem xét phần các tội phạm, sau đó thông qua chính thức toàn bộ bộ luật.
 

Bộ luật Hình sự - Bộ luật đầu tiên của Nhà nước ta - được ban hành sẽ đánh dấu bước tiến mới trong công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước, sẽ có ý nghĩa lớn trong việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội lần thứ IV và Đại hội lần thứ V của Đảng về mặt tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

1. Ban hành Bộ luật Hình sự là đáp ứng yêu cầu cấp thiết của quản lý nhà nước trong giai đoạn cách mạng mới

Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, những nguyên nhân gốc rễ của tội phạm - chế độ người bóc lột người, sự bần cùng hoá lao động - đã bị xoá bỏ. Tuy nhiên, tội phạm còn tồn tại ở mức độ nhất định do nhiều nguyên nhân và điều kiện (những nhân tố làm phát sinh tội phạm nhưng thúc đẩy nó): Sự phản kháng đến cùng của các giai cấp bóc lột đã bị lật đổ, hoạt động phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế khác, ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và các tư tưởng phi vô sản khác còn tồn tại dai dẳng trong ý thức con người, thiếu sót mặt nọ mặt kia trong quản lý đất nước, pháp chế có lúc, có nơi chưa theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội, thiếu sót trong công tác phòng ngừa và chống tội phạm... Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cho rằng ngay trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, đã có thể bài trừ hết tội phạm và các hành vi phạm pháp khác là một quan điểm tầm thường và phản động. Bởi vì nó dẫn đến sự phủ nhận vai trò của Nhà nước và pháp luật trong giai đoạn này. Thực tiễn cho thấy, ở các nước xã hội chủ nghĩa phát triển, tội phạm tuy giảm nhiều nhưng vẫn xảy ra.

Ở nước ta, những năm gần đây, tình hình tội phạm tăng và diễn biến phức tạp. Có tình hình đó ở nhiều nguyên nhân và điều kiện.

Chúng ta đang ở trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Trong chặng đường này và trong thời kỳ quá độ, cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa diễn ra gay go, phức tạp và quyết liệt. Giai cấp tư sản đã và đang được cải tạo nhưng vẫn còn lực lượng, lực lượng này được bổ sung bằng những nhân tố tự phát nảy sinh từ nền sản xuất nhỏ đang còn phổ biến; những tư tưởng, tâm lý và tập quán của các giai cấp bóc lột và của xã hội cũ chưa bị quét sạch, nhất là các tệ nạn xã hội và những nọc độc của văn hoá phản động do chủ nghĩa thực dân mới gây ra trước đây và hiện nay chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa bành trướng, bá quyền vẫn tìm mọi cách tung vào.

Đảng ta có đường lối chung và đường lối kinh tế đúng đắn, đã xác định được cơ cấu kinh tế đúng. Chính vì vậy mà Hội nghị thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định: “Từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, đất nước ta có những chuyển biến tích cực, những tiến bộ mới, theo hướng đi lên ngày càng vững chắc”. Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội nói chung còn rất nhiều khó khăn và có mặt còn rất gay gắt. Hội nghị thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ những khuyết điểm như: Tiến hành chậm, không đồng bộ và thiếu ăn khớp việc sửa đổi, bổ sung các chính sách, chế độ quản lý; chưa khẩn trương sắp xếp lại sản xuất; làm chậm công tác cải tạo nông nghiệp ở Nam Bộ; xem nhẹ việc cải tạo công, thương nghiệp và quản lý thị trường; buông lỏng chuyên chính vô sản trên nhiều mặt; pháp chế, kỷ luật chưa nghiêm; thiếu cảnh giác và có nhiều sơ hở, đối phó không kịp thời với sự phá hoại của địch đặc biệt là về kinh tế; công tác tư tưởng và tổ chức chưa theo kịp yêu cầu của nhiệm vụ; chưa phát huy được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động...

Cảnh giác, kịp thời đối phó với những âm mưu và hành động phá hoại của kẻ địch, chiến thắng giai cấp tư sản, ra sức khắc phục những yếu kém trong mọi mặt quản lý nhà nước, sẽ bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cũng từ đây mà hạn chế, loại trừ dần các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, vi phạm pháp luật khác.

Tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng gay go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài trên đây, Đảng và Nhà nước phải sử dụng toàn diện và đồng bộ các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, hành chính, tư tưởng và tổ chức; tùy vấn đề và tùy nơi, tùy lúc mà chấp nhận biện pháp này, biện pháp kia. Trong các biện pháp, biện pháp hình sự là không thể thiếu và có tầm quan trọng của nó.

Từ Cách mạng tháng Tám thành công đến nay, qua các thời kỳ, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự. Những văn bản này đã phát huy tác dụng, góp phần bảo vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, củng cố kỷ cương của Nhà nước, góp phần bảo đảm việc thực hiện thắng lợi của nhiệm vụ cách mạng. Nhưng đó mới chỉ là những văn bản quy định về một hoặc vài vấn đề riêng biệt, do vậy thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, nhiều tội phạm chưa được quy định. Nhược điểm lớn nhất là chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước - cơ sở chính trị pháp lý để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả chống tội phạm - chưa được thể hiện đầy đủ, toàn diện.

Với những thiếu sót trên đây, pháp luật hình sự hiện có chưa thật là vũ khí sắc bén của chuyên chính vô sản để bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, thúc đẩy cách mạng không ngừng tiến tới.

Tiếp theo việc ban hành Hiến pháp mới và các đạo luật mới về tổ chức bộ máy nhà nước, việc ban hành Bộ luật Hình sự quán triệt được yêu cầu của việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của thời kỳ quá độ, nhất là chặng đường đầu tiên của thời kỳ này, của việc tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, là đáp ứng một đòi hỏi cấp thiết. Bộ luật Hình sự quy định thống nhất, có hệ thống, trong cùng một văn bản mọi vấn đề về tội phạm và hình phạt. Xuất phát từ các quy luật phát triển khách quan của xã hội ta, phản ánh tâm lý, nguyện vọng và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kế thừa những kinh nghiệm phong phú về phòng ngừa và chống tội phạm của mấy chục năm qua, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Bộ luật Hình sự phải có tính chiến đấu cách mạng cao, tính sáng tạo và khoa học.

2. Bộ luật Hình sự thể chế hoá chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng mới

Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung, trong Nhà nước ta nói riêng, phòng ngừa và chống tội phạm có thể là cuộc đấu tranh có tổ chức và có kế hoạch. Cuộc đấu tranh này không chỉ là nhiệm vụ của một số cơ quan chuyên trách mà còn là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan nhà nước khác, của tất cả các tổ chức xã hội, của toàn thể nhân dân. Nó chỉ có thể tiến hành có hiệu quả trên những cơ sở, những nguyên tắc nhất định, bằng những phương pháp, những biện pháp thích hợp. Bộ luật Hình sự thể chế hoá toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay và đây là việc chưa từng có trong công tác lập pháp hình sự của nước ta. Chính sách này thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết và triệt để chống tội phạm; bảo đảm tính nghiêm khắc trong tình hình hiện nay, nhưng cũng khoan hồng đúng mức; trừng trị nhưng không xem nhẹ mặt giáo dục do vững tin vào khả năng cải hoá, cải tạo con người của chế độ ta.

Trước hết, Bộ luật Hình sự thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tội phạm. Trên quan điểm này, nó xác định “tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật này, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý...”. Đây là lần đầu tiên mà trong văn bản của Nhà nước, khái niệm tội phạm - một khái niệm chính trị - pháp lý - được vạch ra.

Trong nhiều yếu tố trên đây của tội phạm, tính nguy hiểm của xã hội là tiêu chuẩn cơ bản. Nó mang bản sắc giai cấp rõ rệt; nó chỉ ra cần phải bảo vệ lợi ích của giai cấp nào, vì lợi ích của ai mà coi một hành vi là nguy hiểm. Trong các nhà nước bóc lột, tội phạm là những hành vi xâm phạm trật tự xã hội mà các giai cấp bóc lột thiết lập; những hành vi tiến bộ, cách mạng bị quy là tội phạm. Trong Nhà nước ta hiện nay, tội phạm là những hành vi xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xâm phạm thể chế kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm và các quyền cơ bản khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Tính nguy hiểm cho xã hội chủ nghĩa còn là một phạm trù lịch sử. Trong cùng một nhà nước, tùy các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội mà tính nguy hiểm của một số hành vi nào đó xuất hiện hay mất đi, hoặc thay đổi về mức độ. Do vậy, khi quy định về các tội phạm cũng như khi áp dụng điều luật, không thể thoát ly hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội. Theo Các-Mác, “pháp luật không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế cũng như sự phát triển văn hoá tương ứng với chế độ kinh tế đó”.

Điểm khác đáng lưu ý là các tội phạm phải được quy định trong Bộ luật Hình sự. Như vậy là không còn áp dụng nguyên tắc tương tự. Đây là điều mới trong lập pháp hình sự của Nhà nước ta. Trước đây, trong một vài trường hợp, để trừng trị những tội phạm chưa được quy định, phải vận dụng điều luật về những tội phạm có những dấu hiệu tương tự tội phạm chưa được quy định.

Ngày nay, chúng ta xây dựng cả một bộ luật gồm trên dưới 300 điều, quy định trên 200 tội phạm. Tổng kết những kinh nghiệm đấu tranh nhiều năm chống tội phạm và dự kiến tình hình diễn biến của tội phạm trong thời gian tới, chúng ta có khả năng thực hiện không để lọt tội phạm nghiêm trọng. Sau này, nếu do sự biến chuyển của tình hình mà phát sinh tội phạm mới thì sẽ kịp thời bổ sung Bộ luật.

Bộ luật Hình sự thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước về hình phạt. Các-Mác đã chỉ rõ “hình phạt chẳng qua chỉ là một thủ đoạn tự vệ của xã hội đối với những hành vi xâm phạm điều kiện tồn tại của nó, bất kể những điều kiện đó như thế nào”. Hình phạt đã có từ lâu đời ở những nước, những dân tộc, những thời đại khác nhau, ở những chế độ khác nhau, nó khác nhau về nội dung, về hình thức thể hiện, nhất là về mục đích... Trong Nhà nước phong kiến, rõ ràng hình phạt mang nặng tính chất trả thù, khủng bố, ở đây ta thấy những hình phạt hết sức dã man, tàn khốc như khoét mắt, chặt chân tay, xẻo từng miếng thịt cho đến chết, giết cả ba họ... Mặc cho giai cấp tư sản ra sức biện minh, tính chất trả thù, khủng bố của hình phạt vẫn tồn tại trong chế độ tư sản. Người cách mạng Việt Nam biết rõ hơn ai hết chế độ vô cùng hà khắc, vô nhân đạo của nhà tù Mỹ - Ngụy trong những năm chưa xa đây bao nhiêu...

Trong chế độ ta, xuất phát từ khoa học Mác-xít về xã hội, từ quan niệm về sự thống nhất biện chứng giữa cưỡng chế và giáo dục mà xác định mục đích, nội dung của hình phạt. Hình phạt không thể có tính chất trả thù; người phạm tội thì phải chịu hình phạt, nhưng ta tránh làm họ đau đớn về thể xác, không những không hạ thấp phẩm giá của họ mà lại tạo điều kiện để họ khôi phục phẩm giá nhiều ít đã mất đi do phạm tội.

Các-Mác đã nêu lên tư tưởng cho rằng phương hướng chống tội phạm cơ bản nhất là phòng ngừa: “Nhà làm luật thông thái bao giờ cũng làm tất cả để phòng ngừa tội phạm chứ không để sau này phải trừng trị kẻ phạm tội”. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu vào tháng 5 năm 1951 đã dạy cho học viên lớp bồi dưỡng cán bộ tư pháp rằng: Phải xét xử về hình sự cho tốt để tiến tới không phải xét xử. Phòng ngừa tội phạm đòi hỏi Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải chủ động áp dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hoá, pháp lý, tổ chức. Trong những biện pháp pháp lý, việc áp dụng hình phạt kịp thời cũng là một biện pháp, một hướng phòng ngừa tội phạm. Chính vì vậy mà trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, hình phạt còn nhằm mục đích phòng ngừa - phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.

Đối với bản thân người phạm tội, hình phạt nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc khác của đời sống xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Trừ tử hình là hình phạt đặc biệt, áp dụng đối với những kẻ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng cần loại trừ hẳn khỏi xã hội, hình phạt nào cũng có chức năng này.

Đối với những người khác, hình phạt có tác dụng răn đe, kiềm chế những người không vững vàng, có ý định phạm tội; hình phạt góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đông đảo nhân dân, động viên mọi người tích cực tham gia phòng ngừa và chống tội phạm.

Các tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau. Những người phạm tội có động cơ, mục đích khác nhau, dùng những thủ đoạn khác nhau, gây hậu quả khác nhau; thái độ của mỗi người trong và khi phạm tội không giống nhau. Việc xử lý có đích đáng, thích ứng với từng hoàn cảnh mới đạt tác dụng cao. Từ những quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, về hình phạt, chính sách xử lý được vạch ra.

Các tội phản cách mạng (trong Bộ luật Hình sự gọi là tội phạm an ninh quốc gia đặc biệt nguy hiểm) xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đe doạ bản thân sự tồn tại của chế độ xã hội chủ nghĩa, của Nhà nước ta. Từ trước đến nay cũng như từ nay về sau, những tội phạm này bao giờ cũng được coi là nghiêm trọng nhất và nói chung phải được trừng trị nghiêm khắc nhất.

Ngoài các tội phạm cách mạng ra, các tội phạm sau đây thuộc những loại cần trừng trị thật nghiêm khắc:

- Các tội phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa như cướp, cưỡng đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, phá hủy tài sản của Nhà nước hoặc của tập thể. Phải trừng trị thật nghiêm khắc các tội này vì nó xâm phạm cơ sở của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền tảng, nguồn sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, nguồn ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

- Nghị quyết Hội nghị thứ tư của Ban Chấp hành trung ương Đảng chỉ rõ “Mặt trận lưu thông phân phối hiện nay có nhiều vấn đề cấp bách nhất, nóng bỏng nhất, đó là nơi có nhiều khó khăn, nhiều hiện tượng tiêu cực và cũng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt nhất giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa địch và ta”. Ta cần chú trọng các tội phạm về kinh tế trong đó nghiêm trị các tội đầu cơ, buôn lậu, trộm cắp, tem phiếu, làm giả hoặc lưu hành tem phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối.

- Chế độ ta coi con người là vốn quý nhất. Các tội giết người, hiếp dâm, bắt cóc đều thuộc loại cần trừng trị thật nghiêm khắc, tội cướp tài sản của công dân cũng vậy.

Về trừng trị những người phạm tội, Bộ luật Hình sự phân biệt rõ những trường hợp cần nghiêm trị và những trường hợp có thể khoan hồng.

Trong từng loại tội phạm, những tội có tổ chức là có nhiều người tham gia thực hiện và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người này, bao giờ cũng mang tính nguy hiểm cao hơn cả. Vì vậy, phải nghiêm trị những người phạm tội có tổ chức và trong bọn này cần nghiêm trị hơn cả những kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy là những kẻ giữ vai trò quan trọng nhất.

Những kẻ ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm khước từ sự giáo dục, cải tạo, không chịu rời bỏ con đường tội lỗi, dĩ nhiên cũng phải bị nghiêm trị.

Trong tình hình hiện nay, để giúp phần củng cố quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và thực hiện quản lý của Nhà nước, phải xử lý kiên quyết, kịp thời và công minh những cán bộ, nhân viên thoái hoá, biến chất, lấy cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, ăn hối lộ, thông đồng với tư sản, gian thương để làm giàu phi pháp, ức chế quần chúng. Trong bọn này, cần nghiêm trị những kẻ lợi dụng chức vụ, quyền hành để phạm tội.

Đối với những người thật thà hối cải, tự thú, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra thì khoan hồng. Khoan hồng là phạt nhẹ hơn mức thông thường. Trong một số trường hợp đặc biệt, có thể khoan hồng đến mức miễn hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Chính sách khoan hồng biểu thị lòng nhân đạo xã hội chủ nghĩa, lòng tin ở người đã trót phạm tội, khuyến khích họ sống tốt lên. Được áp dụng đúng đắn, chính sách khoan hồng có tác dụng tích cực trong việc giải quyết các vụ án.

Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người bị kết án lao động, cải tạo tốt trở thành công dân lương thiện. Bộ luật Hình sự quy định những điều kiện để giảm hình phạt kể cả tha tù trước thời hạn đối với người đã chứng tỏ thật thà cải tạo. Người bị tù chung thân cũng có thể được giảm án. Người đã chấp hành xong hình phạt, qua thời gian thử thách dài hay ngắn, tuỳ theo mức độ nặng hay nhẹ của bản án, nếu làm ăn đúng đắn, chấp hành tốt chính sách, pháp luật, không phạm tội mới, thì được xoá án và coi như chưa can án bao giờ.

Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước quan tâm đến người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) phạm tội. Người chưa thành niên chưa ổn định về mặt trạng thái tâm lý, sinh lý, còn bị hạn chế về nhận thức, thiếu kinh nghiệm sống, chưa có khả năng đánh giá đúng đắn sự việc. Trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tuy ta đã đạt những thành tích rất đáng tự hào, nhưng cũng còn nhiều thiếu sót, nhất là việc giáo dục ở cả ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội chưa thật quán triệt đường lối giáo dục xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều trường hợp phạm pháp của người chưa thành niên, có phần trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội, chưa thật nhất quán đường lối giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đối với những người chưa thành niên phạm tội, không thể xử lý như đối với người thành niên phạm tội. Đảng và Nhà nước có chính sách riêng. Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội là một bộ phận của chính sách hình sự chung; mặt khác nó cũng phản ánh chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người chưa đến tuổi vị thành niên.

Lần đầu tiên được thể chế hoá trong Bộ luật Hình sự, chính sách đối với người chưa đến tuổi vị thành niên phạm tội có những nét chính sau đây:

Người dưới 14 tuổi dù phạm tội nghiêm trọng cũng được miễn trách nhiệm hình sự. Đối với những trẻ em này, sẽ áp dụng các biện pháp xã hội như giao cho gia đình, các đoàn thể bảo lãnh, đưa vào trường giáo dưỡng.

Người chưa thành niên từ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự tuỳ theo tính chất nghiêm trọng hay ít nghiêm trọng của tội phạm và cũng tùy theo lớp tuổi.

Trong việc xử lý về hình sự người chưa đến tuổi vị thành niên phạm tội, mục đích giáo dục, cải tạo nổi bật. Do đó cần áp dụng rộng rãi các biện pháp như buộc phải chịu thử thách, đưa vào trường giáo dưỡng. Gia đình và xã hội có vai trò quan trọng, có trách nhiệm lớn trong việc thực hiện các biện pháp này.

Chỉ phạt tù có thời hạn người chưa thành niên phạm tội nghiêm trọng và trong trường hợp thật sự cần thiết phải cách ly người đó khỏi xã hội một thời gian. Mức độ nhẹ hơn so với người vị thành niên.

Không áp dụng các hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa thành niên. Không giam chung người này với phạm nhân thành niên.

Những điều kiện để giảm án, xoá án cho những người chưa thành niên cũng được giảm...

Thi hành Bộ luật Hình sự là nhiệm vụ của Nhà nước và của toàn xã hội. Vì vậy, không chỉ các cơ quan chuyên trách mà tất cả các cơ quan nhà nước, tất cả các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải hiểu biết, nắm chính sách hình sự, trên cơ sở này tích cực tham gia công tác phòng ngừa và chống tội phạm.

Không chờ đợi Bộ luật Hình sự được chính thức thông qua và ban hành, ngay từ bây giờ chúng ta cần phổ biến, tuyên truyền sâu rộng chính sách hình sự, đồng thời đẩy mạnh việc tuyên truyền pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, nâng cao ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa trong cán bộ, nhân dân.

Mọi cơ quan, tổ chức xã hội có trách nhiệm giáo dục, giám sát, kiểm tra những người thuộc quyền quản lý của mình về việc tuân theo và bảo vệ pháp luật; kiên quyết và kịp thời có những biện pháp hạn chế, loại trừ những nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm và các vi phạm pháp luật khác trong cơ quan, tổ chức mình.

Mọi công dân đều phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật và phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, giám sát các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các công dân khác trong việc chấp hành chính sách, pháp luật.

Phan Hiền

Bộ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn 1981 - 1992

 

(Bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 6, năm 1984).