Chính sách mở cửa về kinh tế và vấn đề hoàn thiện môi trường pháp lý ở Việt Nam [1]
Sign In

Chính sách mở cửa về kinh tế và vấn đề hoàn thiện môi trường pháp lý ở Việt Nam [1]

 

Thưa các quý bà, quý ông!

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn Liên đoàn các tổ chức kinh tế Nhật Bản (Keidanren), các công ty Luật Deacons và Graham Jemes/Sly, anh Weigall đã dành cho tôi cơ hội ngày hôm nay được gặp gỡ với các nhà doanh nghiệp hàng đầu của Nhật Bản và phát biểu một số điều về Việt Nam, đất nước đang thu hút sự quan tâm của các vị.

Thưa các vị!

Bắt đầu từ năm 1987, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước. Xuất phát từ tình hình thực tế của đất nước, chúng tôi xác định, trước hết phải đặc biệt chú trọng đổi mới về kinh tế và dựa trên kết quả đổi mới về kinh tế mà từng bước vững chắc đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới các lĩnh vực khác, ổn định để phát triển và phát triển để càng ổn định hơn - đó là phương châm của chúng tôi. Bởi vì, chúng tôi quan niệm rằng, nhân dân chúng tôi nói chung và các nhà kinh doanh trong nước nói riêng, đặc biệt là các nhà kinh doanh, đầu tư nước ngoài không thể bỏ công, bỏ của vào đầu tư ở một môi trường tiềm tàng những bất trắc, rủi ro, thiếu ổn định.

Thực hiện đổi mới về kinh tế, chúng tôi nhằm đạt được mục tiêu tổng quát là: Giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội; xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dần dần hòa nhập vào thị trường khu vực và quốc tế; ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, sớm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội; ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho đất nước phát triển nhanh vào đầu thế kỷ XXI.

Theo quan điểm của chúng tôi, đổi mới về kinh tế bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:

- Thực hiện mạnh mẽ chính sách dân chủ hoá về kinh tế trên cơ sở các nguyên tắc hiến định là tự do kinh doanh, tự do khế ước trong khuôn khổ pháp luật. Mọi công dân Việt Nam có đủ điều kiện theo luật định đều có quyền tự mình hoặc liên kết với những người khác thành lập doanh nghiệp hoặc kinh doanh trên mọi lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm. Trên cơ sở đó, một nền kinh tế nhiều thành phần, không chỉ có quốc doanh và tập thể như trước đây đã hình thành; nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất đã ra đời, trong đó có các loại hình sở hữu hỗn hợp đan xen nhau giữa các thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, được tự do cạnh tranh với nhau theo một “luật chơi’’ chung của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quốc dân, Nhà nước sẽ định ra một số ngành nghề then chốt mà kinh tế quốc doanh nắm độc quyền giữ vai trò chủ đạo.

- Từng bước xoá bỏ, đi đến xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quản lý kinh tế cũ theo lối hành chính, mệnh lệnh và kế hoạch hoá tập trung cao độ trên cơ sở thiết lập từng bước vững chắc cơ chế thị trường, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân bằng các chính sách và công cụ kinh tế, chấm dứt sự can thiệp theo lối mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ngay cả đối với các doanh nghiệp nhà nước. Bằng việc tăng cường ban hành pháp luật, Nhà nước dần dần tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khuôn khổ hành lang pháp lý đó, Nhà nước thừa nhận và tôn trọng đầy đủ quyền tự chủ của các doanh nghiệp, của các nhà kinh doanh và thực hiện sự bảo hộ cần thiết đối với mọi quyền lợi hợp pháp của họ.

- Xây dựng nền kinh tế vừa mở bên trong, vừa mở với bên ngoài, đưa nền kinh tế Việt Nam hòa nhập vào thị trường và đời sống kinh tế của khu vực và thế giới. Quá khứ đã để lại cho chúng tôi bài học không thành công về xây dựng nền kinh tế tự cung, tự cấp, đóng cửa với bên ngoài hay nói đúng hơn chỉ mở cửa đối với một khu vực nhất định. Nhưng, cũng không thể mở cửa với bên ngoài mà đóng cửa bên trong, ngược lại, chúng tôi quan niệm rằng mở cửa bên trong là điều kiện tiên quyết để thực hiện nền kinh tế mở với bên ngoài.

Trong gần 6 năm qua, thực hiện chính sách mở cửa về kinh tế, mặc dù mất đi nguồn viện trợ truyền thống to lớn và trong điều kiện tiếp tục bị cấm vận, bộ mặt kinh tế của Việt Nam đã khởi sắc, trở nên sống động và từng bước bắt nhịp vào cơ chế thị trường. Chắc các vị đều biết về những thành tựu bước đầu của chúng tôi trên các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp; khai thác dầu khí, than, đá quý; sản xuất xi măng, điện; xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài; ổn định thị trường giá cả, tiền tệ v.v… và quan trọng nhất là đời sống của các tầng lớp nhân dân đã được ổn định, cải thiện một bước và bắt đầu có tích lũy. Tất cả những cái đó, tuy mới là bước đầu, nhưng đối với chúng tôi là rất quan trọng, khẳng định tính đúng đắn của chính sách đổi mới về kinh tế, cổ vũ chúng tôi quyết tâm tiếp tục thực hiện chính sách đó.

Cố nhiên, chúng tôi không quá lạc quan để không nhìn thấy những khó khăn mới nảy sinh, cả khách quan và chủ quan, cũng như những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Song tôi muốn khẳng định với các vị rằng, những khó khăn, tiêu cực đó không làm chúng tôi chững lại hoặc lùi bước trong chính sách mở cửa về kinh tế. Ngược lại, chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng chỉ có thực hiện triệt để và nhất quán chính sách này, chúng tôi mới đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội có tính cương lĩnh và chiến lược mà Nhà nước chúng tôi đã đề ra. Và cách làm như vậy cũng chính là chỗ dựa vững chắc cho chúng tôi vượt qua khó khăn đẩy lùi tiêu cực.

Để phục vụ chính sách mở cửa về kinh tế, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải sớm xây dựng và hoàn thiện một khung pháp luật kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường Việt Nam. Khung pháp luật thiếu đầy đủ, đồng bộ hoặc thiếu ổn định đều không đủ bảo đảm độ tin cậy và an toàn cho đầu tư, kinh doanh trong nước, cũng như ngoài nước.

Ở thời điểm đầu năm 1987, có thể nói toàn bộ hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam, kể cả các quy định tương ứng của Hiến pháp năm 1980, đều bất cập với chính sách kinh tế mở cửa, nếu không nói là kìm hãm. Quốc hội khoá VIII của chúng tôi đặt ra nhiệm vụ vừa song song nghiên cứu sửa đổi cơ bản và toàn diện Hiến pháp, vừa nghiên cứu xây dựng các bộ luật, luật và các văn bản dưới luật điều chỉnh những vấn đề cấp bách phục vụ kịp thời cho chính sách kinh tế mới.

Chưa bao giờ hoạt động lập pháp và lập quy của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và Chính phủ chúng tôi lại tích cực, sôi động và có hiệu quả như nhiệm kỳ khoá VIII vừa qua. Trên cơ sở tư duy kinh tế và pháp lý mới, Quốc hội, Hội đồng Nhà nước đã ban hành trên 70 luật, bộ luật, pháp lệnh và Hội đồng Bộ trưởng đã ra hàng trăm nghị định, quy định áp dụng luật, pháp lệnh, cũng như điều chỉnh có tính chất thử nghiệm những vấn đề mới mà chưa được luật, pháp lệnh quy định. Trên lĩnh vực kinh tế, đáng chú ý là Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1987), Luật Đất đai (năm 1987), Luật Công ty (năm 1990), Luật Doanh nghiệp tư nhân (năm 1990) Luật Thuế lợi tức (năm 1990), Luật Thuế doanh thu (năm 1990), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (năm 1990) Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng hoá (năm 1991), Bộ luật Hàng hải (năm 1990), Luật Bảo vệ và phát triển rừng (năm 1991), Luật Hàng không dân dụng (năm 1991), Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (năm 1988), Pháp lệnh Kế toán và thống kê (năm 1988), Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (năm 1989), Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (năm 1989), Pháp lệnh trọng tài kinh tế (năm 1990), Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam (năm 1990), Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (năm 1990), Pháp lệnh Hải quan (năm 1990), Pháp lệnh Thuế tài nguyên (năm 1990), Pháp lệnh Hợp đồng dân sự (năm 1991), Pháp lệnh Nhà ở (năm 1991) v.v…

Ngày 15 tháng 4 năm nay, Quốc hội chúng tôi đã thông qua Hiến pháp sửa đổi, gọi là Hiến pháp năm 1992, đạo luật cơ bản mới của Nhà nước chúng tôi. Bản Hiến pháp này đã ghi nhận những nguyên tắc pháp lý cơ bản cho việc thiết lập ở Việt Nam một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, quan trọng nhất là các nguyên tắc: Phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế; Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất; cá nhân được tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp không hạn chế về quy mô, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước; tài sản hợp pháp, bao gồm cả tư liệu sản xuất của cá nhân, tổ chức kinh tế Việt Nam không bị quốc hữu hoá; Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá.

Cần phải nói thêm rằng, các chương và điều khoản khác của Hiến pháp năm 1992 hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đều thể chế hoá chính sách mở cửa về kinh tế.

Thưa quý bà, quý ông!

Phát biểu với các nhà kinh doanh Nhật Bản, tôi không thể không đề cập vài nét về Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 1987 và sửa đổi năm 1990, mặc dù tôi tin chắc rằng nhiều vị ở đây đã biết đến nó.

Nói một cách khái quát, Luật Đầu tư nước ngoài được xây dựng trên cơ sở tư duy đã được “đổi mới”, không những phù hợp với pháp luật, tập quán kinh doanh quốc tế, mà còn mang tính hấp dẫn riêng: Tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào của nền kinh tế quốc dân; nếu là lĩnh vực được Nhà nước Việt Nam khuyến khích thì quyền lợi được hưởng cao hơn; được hợp tác đầu tư trực tiếp với các tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế; Luật quy định ba hình thức đầu tư trực tiếp là hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, thành lập xí nghiệp liên doanh trong đó phần góp vốn của một bên hoặc các bên nước ngoài không bị hạn chế về mức cao nhất, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài; thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không quá 20 năm, trong trường hợp cần thiết có thể kéo dài đến 50 năm; Nhà nước Việt Nam bảo đảm đối đãi công bằng và thoả đáng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, lại càng không thể bị quốc hữu hoá; các tổ chức, cá nhân người nước ngoài đầu tư được chuyển ra khỏi Việt Nam lợi nhuận, những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật hoặc dịch vụ, tiền gốc và lãi của các khoản cho vay, vốn đầu tư và các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình; được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, vật tư góp vào vốn của xí nghiệp hoặc vốn để hợp tác và đối với thiết bị, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu; được tự do tuyển dụng lao động Việt Nam và nước ngoài; khi có tranh chấp, các bên được đưa ra trước tổ chức Trọng tài kinh tế Việt Nam hoặc một tổ chức Trọng tài hoặc cơ quan xét xử khác do các bên thoả thuận; Nhà nước Việt Nam tạo những điều kiện thuận lợi và định các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam; Luật quy định một cơ quan đầu mối có thẩm quyền giải quyết các việc liên quan đến đầu tư nước ngoài là Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư.

Có thể khẳng định rằng, Hiến pháp năm 1992 và những văn bản pháp luật đã được thông qua trong gần 6 năm nay đã làm hình thành một khung pháp luật kinh tế phục vụ cho việc xây dựng và phát triển ở Việt Nam một nền kinh tế thị trường có điều tiết. Nhiều văn bản pháp luật đã phát huy được tác dụng tích cực, góp phần quan trọng vào những thành tựu kinh tế của đất nước. Song, cũng phải thừa nhận rằng, chúng tôi còn phải cố gắng rất nhiều nữa mới có được khung pháp luật kinh tế đầy đủ, đồng bộ và ổn định.

Hiến pháp năm 1992 đặt ra vấn đề phải tổng rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới toàn bộ hệ thống pháp luật của Nhà nước cho phù hợp, nhất quán với Hiến pháp và làm cho mọi quy định của Hiến pháp được thực thi đầy đủ bằng cách phải cụ thể hoá chúng trong các đạo luật, bộ luật, pháp lệnh, cũng như văn bản dưới luật khác. Công việc hết sức đồ sộ, song Nhà nước, Chính phủ chúng tôi quyết tâm thực hiện xong về cơ bản từ nay đến hết năm 1995 hoặc dài hơn vài ba năm.

Với Hiến pháp mới và Cương lĩnh xây dựng đất nước, chiến lược kinh tế - xã hội đến năm 2000, chúng tôi đang nghiên cứu xây dựng chiến lược pháp luật Việt Nam, nhằm đưa hoạt động lập pháp, lập quy của Nhà nước vào nề nếp, tuân theo những mục tiêu định hướng rõ ràng, đáp ứng đúng nhu cầu của cuộc sống kinh tế - xã hội. Cũng xin cung cấp một thông tin để các vị rõ: UNDP đang giúp đỡ chúng tôi trong việc xây dựng chiến lược này.

Riêng tại hai kỳ họp tháng 9 và tháng 12 năm nay, Quốc hội khoá IX (mới) sẽ tập trung vào việc xem xét, sửa đổi các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về kinh tế như: Luật Đất đai, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời xem xét thông qua các đạo luật, bộ luật mới phục vụ cho kinh tế thị trường như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hợp đồng thương mại, Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Dầu khí, Luật Mỏ, Luật Bảo vệ môi trường v.v… Cũng về lĩnh vực kinh tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét thông qua Pháp lệnh Tòa án kinh tế, Pháp lệnh Đô thị, Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; cho ý kiến để chỉnh lý và xem xét thông qua vào đầu năm 1993 Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài.

Việc nghiên cứu sửa đổi hoặc ban hành mới các Luật, Pháp lệnh này đều dựa trên cơ sở tư duy kinh tế và pháp lý mới, các đạo luật sẽ được xem xét sửa đổi như Luật Đất đai, Luật Đầu tư nước ngoài chắc chắn không làm giảm, mà ngược lại, càng tăng thêm tính hấp dẫn và độ tin cậy của chúng.

Ngoài việc tích cực xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế, Nhà nước và Chính phủ chúng tôi rất chú trọng việc ký điều ước quốc tế, cũng như tham gia vào các công cụ pháp lý quốc tế bảo hộ, khuyến khích đầu tư và thương mại, nhằm tạo ra độ tin cậy cao hơn cho môi trường pháp lý Việt Nam.

Chắc các vị đã rõ, Việt Nam đã và đang chuẩn bị ký kết với nhiều nước Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, Hiệp định thương mại, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần; đã gia nhập nhiều Công ước quốc tế trên lĩnh vực hàng hải, hàng không v.v… đang tích cực vận động để trở lại các tổ chức tài chính và tiền tệ quốc tế và khu vực. Các cơ quan có trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam cũng đang nghiên cứu để trình việc gia nhập Tổ chức Bảo đảm đầu tư đa phương (MIGA), Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế, Công ước New York về công nhận và thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài. Công ước Oa-Sinh-Tơn về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa quốc gia và công dân quốc gia khác v.v… Đây là những vấn đề hết sức mới mẻ và khó đối với chúng tôi, song chắc chắn, chúng tôi sẽ sớm gia nhập. Điều đó chứng tỏ, chúng tôi đã và đang chấp nhận “luật chơi” chung của thị trường thế giới.

Một môi trường pháp lý thuận lợi và an toàn cho đầu tư, kinh doanh chắc chắn không chỉ dừng lại ở việc có được một khung pháp luật kinh tế phù hợp. Có pháp luật tốt - chưa đầy đủ, mà vấn đề khác không kém quan trọng là xây dựng một cơ chế bảo đảm pháp luật đó được thực thi một cách nghiêm chỉnh, khách quan và vô tư. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, chúng tôi đồng thời thực hiện một cuộc cải cách sâu rộng bộ máy nhà nước nhằm làm cho nó trở nên có hiệu lực hơn, năng động hơn, phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới. Trong việc cải cách bộ máy nhà nước, chúng tôi đặc biệt chú trọng cải cách nền hành chính quốc gia và cải cách tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Do lịch sử để lại, bộ máy hành chính hiện nay của Nhà nước chúng tôi rất cồng kềnh, vừa tập trung quan liêu vừa phân tán. Mấy năm gần đây lại thêm nạn tham nhũng hoành hành. Tất cả những điều đó đang ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, kinh doanh.

Do đó, cải cách nền hành chính quốc gia, chúng tôi trước hết nhằm vào mục tiêu cơ bản là làm cho Nhà nước nói chung và hệ thống hành chính nói riêng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đổi mới về kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị, có một tổ chức và phương thức quản lý đủ năng lực bảo đảm thực thi có hiệu lực quyền hành pháp. Hệ thống hành chính quốc gia mà chúng tôi đang xây dựng phải là một hệ thống hành chính có đầy đủ tính dân chủ, pháp quyền, trong sạch, được tổ chức một cách khoa học, hoạt động với đầy đủ quyền lực, năng lực, bảo đảm hiệu lực quản lý của Nhà nước.

Trên cơ sở tách biệt rõ ràng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế (vĩ mô) với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh (vi mô), chấm dứt sự can thiệp trái pháp luật của các bộ, ngành, các chính quyền địa phương vào hoạt động sản xuất kinh doanh, kể cả đối với các doanh nghiệp nhà nước.

Trên cơ sở định rõ bằng pháp luật hoạt động quản lý hành chính về kinh tế; quản lý cái gì, đến mức nào và ai quản lý v.v…, xoá bỏ tệ quan liêu giấy tờ, tình trạng “phép vua thua lệ làng” đang gây phiền hà cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Làm được như vậy cũng là xoá bỏ một trong những căn nguyên gây ra nạn tham nhũng.

Cùng với cải cách hành chính, chúng tôi đang nghiên cứu để sang năm 1993 trình Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội Luật hoặc Pháp lệnh về tổ chức Tòa án hành chính và về tố tụng hành chính. Theo sự hình dung của chúng tôi hiện nay, Tòa án hành chính sẽ là một cơ quan tài phán về hành chính độc lập, với hai chức năng chủ yếu là: xét xử các văn bản vi phạm luật, Pháp lệnh và các văn bản pháp quy của Chính phủ; giải quyết tranh chấp giữa một bên là công dân với một bên là các cơ quan của công dân. Sự ra đời của Tòa án hành chính chắc chắn sẽ là bảo đảm cho sự thành công của công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia.

Cải cách tư pháp được xem là bộ phận quan trọng của công cuộc cải cách bộ máy nhà nước. Nếu không nói đến những mặt ưu điểm, thì nền tư pháp hiện nay của chúng tôi về cơ bản được tổ chức phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu trước đây, không đủ tầm giải quyết các tranh chấp, nhất là trên lĩnh vực kinh tế, nảy sinh trong điều kiện xây dựng kinh tế thị trường. Hiến pháp năm 1992 đã có những sửa đổi quan trọng theo hướng cải cách tư pháp như thay chế độ thẩm phán bầu bằng chế độ bổ nhiệm, bổ sung vào hệ thống Tòa án thường, việc thành lập các Tòa án chuyên ngành v.v… Song, nội dung cơ bản của cải cách tư pháp còn đang được các ngành, các cấp nghiên cứu đề xuất.

Theo quan niệm của chúng tôi, cải cách tư pháp bao gồm việc đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của một loạt các cơ quan như Tòa án, Tư pháp, Kiểm sát, Trọng tài, Điều tra, cũng như các tổ chức hỗ trợ tư pháp như công chứng, giám định, luật sư, thi hành án, lý lịch tư pháp v.v… Mục tiêu cơ bản của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng một nền tư pháp bảo đảm công lý, khách quan, vô tư, bình đẳng, dân chủ, đủ năng lực giải quyết mọi tranh chấp nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội đang đổi mới của đất nước.

Riêng trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh tế, một mặt, chúng tôi đang nghiên cứu đề án thành lập hệ thống Tòa án kinh tế (thương mại), các Tòa án lao động, các Tòa án kiểm toán, thuế; mặt khác, tổ chức lại và hoàn thiện các tổ chức trọng tài phi chính phủ bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (Trọng tài Ngoại thương và Trọng tài Hàng hải…). Các Tòa án kinh tế và trọng tài này sẽ thay thế hệ thống Trọng tài kinh tế Nhà nước hiện nay, một loại hình cơ quan của cơ chế quản lý kinh tế cũ vừa mang tính chất hành pháp, vừa mang tính chất tư pháp.

Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành, các đạo luật sắp tới được ban hành về hợp đồng thương mại và về trọng tài thương mại đã và sẽ cho phép các nhà kinh doanh, đầu tư trong và ngoài nước được tự do lựa chọn cơ quan, tổ chức tài phán để giải quyết các tranh chấp của mình: hoặc của Nhà nước, hoặc phi chính phủ, hoặc của Việt Nam, hoặc của nước ngoài. Nhà nước không giữ độc quyền về tài phán kinh tế, tất nhiên trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Các cơ quan, tổ chức tài phán về kinh tế này cũng sẽ thi đua nhau theo cơ chế thị trường, tức là sẽ phải ra sức chăm lo đến tín nhiệm của mình đối với khách hàng.

Trong tình hình đó, các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài chắc hẳn sẽ quan tâm đến vấn đề làm sao để các quyết định của Trọng tài nước ngoài được công nhận và thi hành ở Việt Nam? Chúng tôi đang tích cực nghiên cứu và như tôi đã nói ở trên, theo Chương trình xây dựng luật, Pháp lệnh 1992 -1993, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét để thông qua Pháp lệnh về vấn đề này; mặt khác, Nhà nước chúng tôi cũng đang xem xét khả năng gia nhập Công ước New York năm 1958.

Một vấn đề nữa chắc các vị cũng rất quan tâm là việc cho phép luật sư nước ngoài vào hành nghề ở Việt Nam. Tôi xin khẳng định với các vị rằng, Chính phủ chúng tôi đã có chủ trương này và đã giao cho Bộ Tư pháp ban hành Quy chế hành nghề tại Việt Nam của luật sư nước ngoài. Dự thảo Quy chế đang được soạn thảo lần thứ 3 và hy vọng rằng, sẽ sớm hoàn thiện để trình Chính phủ xem xét.

 

TS. Nguyễn Đình Lộc

Bộ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn 1992 - 2002

 

Bài phát biểu tại buổi gặp gỡ với các nhà doanh nghiệp Nhật Bản năm 1992 (Lưu trữ Bộ Tư pháp).