Kính thưa các vị đại biểu, thưa tất cả các đồng chí!
Trong 2 ngày rưỡi làm việc, Hội nghị triển khai công tác tư pháp toàn quốc năm 2005 đã diễn ra với tinh thần phấn khởi, nghiêm túc. Có thể nói, đến bây giờ Hội nghị đã thu được kết quả tốt đẹp.
Hội nghị của chúng ta rất vinh dự được đón đồng chí Phan Văn Khải, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, các đồng chí lãnh đạo của các cơ quan Đảng, Quốc hội đến dự và chỉ đạo hội nghị, đại diện lãnh đạo các Bộ, ban, ngành, đoàn thể ở trung ương. Tại Hội nghị này, chúng ta không chỉ đánh giá, tổng kết công tác của Ngành trong năm 2004, triển khai nhiệm vụ năm 2005, mà còn thảo luận, quán triệt sâu một số vấn đề quan trọng của Ngành được hầu hết các đại biểu quan tâm. Đó là củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp địa phương, tổ chức pháp chế bộ, ngành, cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và doanh nghiệp nhà nước; tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 35 của Quốc hội về đăng ký hôn nhân thực tế và năm tập trung đăng ký khai sinh cho trẻ em; bàn giao giải pháp tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Thưa các đồng chí!
Qua các ý kiến đã phát biểu và thảo luận về báo cáo tổng kết công tác tư pháp của Ngành năm 2004, có thể thấy, các đồng chí đại biểu đều nhất trí cao với sự đánh giá của Bộ về tất cả các mặt công tác của Ngành, kể cả những mặt mạnh, những thành tích đã đạt được cũng như những vấn đề còn tồn tại, hạn chế và giải pháp khắc phục. Năm 2004, với sự quyết tâm nỗ lực, phát huy nội lực của toàn Ngành và sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành hữu quan ở trung ương và địa phương, công tác tư pháp trong toàn quốc đã được triển khai một cách toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, giành được nhiều kết quả đáng phấn khởi. Tôi xin điểm lại một số kết quả nổi bật.
1. Về xây dựng thể chế và kiện toàn hệ thống tổ chức ngành: Trong năm 2004, Quốc hội ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả, chất lượng, đưa công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương vào nề nếp; đáp ứng sự trông đợi lâu nay của các địa phương. Đây là điều đáng mừng mà trong phần sau tôi sẽ nói về các giải pháp triển khai Luật này. Cũng trong năm 2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành hai pháp lệnh liên quan đến hoạt động của ngành ta là Pháp lệnh Thi hành án dân sự (sửa đổi) và Pháp lệnh Giám định tư pháp. Đây là những văn bản quan trọng để triển khai Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. Pháp lệnh Giám định tư pháp đã khẳng định rõ vai trò của các cơ quan giám định trong quá trình tố tụng, đồng thời cũng đề cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tư pháp chúng ta trong quản lý nhà nước về giám định tư pháp, trách nhiệm bồi dưỡng, đào tạo về mặt nghiệp vụ pháp luật cho đội ngũ giám định viên tư pháp; còn trách nhiệm quản lý tổ chức, cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ trong từng lĩnh vực chuyên môn thì giao cho các bộ, ngành có liên quan của Chính phủ. Điều phấn khởi nữa là trong năm 2004, Chính phủ đã ban hành ba nghị định quan trọng, một lần nữa khẳng định hệ thống tổ chức của các cơ quan tư pháp và pháp chế của chúng ta. Đó là Nghị định số 171/2004/NĐ-CP về các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Nghị định số 172/2004/NĐ-CP về các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Nghị định số 122/2004/NĐ-CP về các tổ chức pháp chế. Như vậy, các cơ quan tư pháp của chúng ta được tổ chức ở 4 cấp (trung ương, tỉnh, huyện, xã); các tổ chức pháp chế được mở rộng đến pháp chế ngành ở các Sở chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các doanh nghiệp nhà nước.
2. Trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế: Cùng với việc tích cực tham gia các vòng đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hoạt động rà soát, đối chiếu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật với các yêu cầu của WTO được Bộ tập trung chỉ đạo thực hiện, về cơ bản đã hoàn thành ở cấp trung ương và đang gấp rút triển khai để kết thúc sớm ở cấp địa phương nhằm hỗ trợ tiến trình Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2005.
3. Năm 2004 cũng là năm đầu toàn ngành tập trung triển khai Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được xác định là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, trước hết là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng. Tháng 12 năm 2004, theo đề nghị của Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chương trình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2005 đến 2020 với trọng tâm hướng công tác phổ biến pháp luật về cơ sở xã, phường, thị trấn.
4. Năm 2004, chúng ta đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 35 của Quốc hội về đăng ký hôn nhân thực tế và năm đăng ký khai sinh cho trẻ em theo Đề án 278 của Bộ Tư pháp. Các địa phương đã phấn đấu cao độ theo tinh thần và mục tiêu đã đề ra, dành được những thắng lợi to lớn với gần 2 triệu trẻ em được đăng ký khai sinh và hơn 1,3 triệu trường hợp hôn nhân thực tế được đăng ký. Tại Hội nghị tổng kết chuyên đề, các đồng chí đã đánh giá cao sự thành công này và coi đó là một trong những thành tựu nổi bật của công tác tư pháp năm vừa qua. Tới đây, Bộ Tư pháp sẽ hoàn chỉnh báo cáo tổng kết để gửi Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ.
5. Trong lĩnh vực đào tạo: Năm 2004, Ngành Tư pháp cũng rất vui mừng với sự kiện Thủ tướng Chính phủ ký quyết định nâng cấp Trường Đào tạo các chức danh tư pháp thành Học viện Tư pháp. Đây là cơ sở đào tạo duy nhất ở nước ta được giao nhiệm vụ đào tạo các chức danh tư pháp như: Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên, công chứng viên và các chức danh tư pháp khác.
Trường Đại học Luật Hà Nội kỷ niệm 25 năm thành lập trường và vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng 3 vì những đóng góp lớn trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý cho đất nước và cho Ngành Tư pháp, các cơ quan bảo vệ pháp luật.
6. Các lĩnh vực công tác khác cũng có nhiều chuyển biến tích cực như hoạt động kiểm tra văn bản, đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, quản lý luật sư, tư vấn pháp luật, hợp tác quốc tế, v.v...
Tôi xin điểm lại một số sự kiện lớn như thế để thấy rằng nhờ có sự cố gắng nỗ lực của toàn ngành, trong năm vừa qua chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, trong thành tích chung đó có sự đóng góp không nhỏ của các đồng chí ở các cơ quan tư pháp địa phương, các tổ chức pháp chế bộ, ngành.
Trong bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị, đồng chí Thủ tướng đã biểu dương những mặt được trong công tác của Ngành Tư pháp trong năm 2004, nhưng điều quan trọng hơn là đồng chí Thủ tướng đã chỉ rõ cho chúng ta những tồn tại, yếu kém, bất cập trong công tác tư pháp mà chúng ta phải cùng nhau thảo luận, bàn bạc, đề ra các giải pháp để khắc phục. Trong báo cáo tổng kết, Bộ có kiểm điểm về những hạn chế này, nhưng qua ý kiến của Thủ tướng, chúng ta càng thấy rõ hơn và xác định quyết tâm phải khắc phục trong năm 2005. Ở đây, tôi xin phép nhắc lại một số ý chính mà Thủ tướng đã chỉ ra để làm cơ sở liên hệ đến những giải pháp; phương hướng công tác của Ngành trong năm tới:
- Về xây dựng thể chế, Thủ tướng nhấn mạnh rằng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình hiện nay. Số lượng văn bản ban hành tuy có tiến bộ hơn, nhiều hơn so với các năm trước, nhưng so với yêu cầu của công cuộc đổi mới thì chúng ta còn cần nhiều văn bản luật, pháp lệnh, nghị định hơn nữa. Trong công tác soạn thảo, thẩm định văn bản, Bộ Tư pháp, Ngành Tư pháp đã có nhiều cố gắng, nhưng vẫn còn tình trạng kéo dài quá hạn việc thẩm định cũng như chậm trễ ban hành văn bản hướng dẫn thi hành một số luật, pháp lệnh thuộc phạm vi quản lý của Ngành. Có một số văn bản, ý kiến thẩm định chưa thể hiện được quan điểm, chính kiến giúp cho Chính phủ hoàn thiện các đề án, dự thảo.
- Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Thủ tướng yêu cầu Ngành Tư pháp phải chỉ đạo triển khai mạnh mẽ Chỉ thị số 32 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tất cả các cấp, các ngành nhằm làm tốt công tác này. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần tiếp tục hướng mạnh về cơ sở, đồng thời bám sát những vấn đề bức xúc của cuộc sống để tập trung triển khai có hiệu quả.
- Trong công tác thi hành án dân sự, Thủ tướng cũng chỉ rõ điểm hạn chế là chúng ta chưa quyết liệt chỉ đạo, chưa kiên quyết triển khai những giải pháp có tính đột phá nhằm khắc phục tình trạng án tồn đọng bấy lâu nay, giải quyết dứt điểm số vụ việc thi hành án phức tạp, khiếu nại kéo dài. Vẫn còn tình trạng khiếu kiện vượt cấp về thi hành án dân sự lên các cơ quan trung ương, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đây là vấn đề chúng tôi thấy rất bức xúc. Trong phần thảo luận 2 ngày vừa qua, chúng ta cũng đã tập trung nói nhiều về vấn đề này.
- Trong công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, chúng ta đã có những cố gắng, thực hiện đổi mới, cải cách, nhất là về thủ tục hành chính. Nhưng cũng có nơi này nơi khác đang còn có những hiện tượng nhũng nhiễu, gây phiền hà, khó khăn cho người dân, chưa đáp ứng được quyền lợi chính đáng của người dân khi làm các thủ tục về đăng ký hộ tịch, công chứng, chứng thực. Tình trạng tiêu cực “cò” công chứng hay sự quá tải công chứng bản sao của một số phòng công chứng ở các thành phố lớn vẫn là vấn đề bức xúc được dư luận quan tâm, các cơ quan của chúng ta thấy rõ nhưng chậm khắc phục, xử lý. Chúng ta chưa làm hết trách nhiệm trong việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi những yêu cầu, quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực, dẫn đến tình trạng các cơ quan, trường học đều đòi hỏi bản sao giấy tờ, chứng chỉ có công chứng, khiến các phòng công chứng bị quá tải.
Thủ tướng cũng nhắc nhở chúng ta phải quan tâm đề ra các giải pháp để đẩy mạnh phân cấp cho chính quyền địa phương trong lĩnh vực hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp; chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, đề cao ý thức trách nhiệm, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ tư pháp các cấp, nhất là trong giải quyết công việc của công dân, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý kịp thời các sai phạm của người thi hành công vụ.
Thưa các đồng chí!
Những ý kiến phát biểu của Thủ tướng Chính phủ là định hướng chỉ đạo quan trọng cho công tác của Ngành Tư pháp năm 2005 nhằm tiếp tục phát huy mạnh mẽ những thành tích đã đạt được, đồng thời tìm ra giải pháp, kiên quyết khắc phục những thiếu sót, tồn tại để phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ công tác rất nặng nề của năm 2005. Trong hơn 2 ngày thảo luận của Hội nghị vừa qua, đã có gần 30 lượt ý kiến của các đồng chí đại diện cho lãnh đạo các Sở Tư pháp, các tổ chức pháp chế bộ, ngành, các phòng hành chính - bổ trợ tư pháp phát biểu tại Hội trường này. Nhiều đồng chí đã nêu được những kinh nghiệm hay, cách làm sáng tạo ở địa phương mình như việc huy động lực lượng để thực hiện công tác soạn thảo, thẩm định văn bản và tư vấn pháp lý cho Ủy ban nhân dân ở TP. Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự quan tâm của chính quyền cũng như sự chỉ đạo, phối hợp công tác chặt chẽ giữa các ngành có liên quan để làm tốt công tác thi hành án dân sự ở Long An, Hải Phòng; kinh nghiệm ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, tự động hoá vào hoạt động nghiệp vụ và công tác quản lý, điều hành ở một số bộ, ngành, địa phương; mô hình triển khai hoạt động bán đấu giá tài sản có hiệu quả ở Nghệ An, v.v... Các đồng chí cũng nêu lên một số khó khăn và có kiến nghị, đề xuất cụ thể với Bộ. Tôi đề nghị đồng chí Chánh Văn phòng và Thủ trưởng các đơn vị chuyên môn của Bộ trong phạm vi lĩnh vực được phân công phụ trách tổng hợp những ý kiến, đề xuất này để nghiên cứu, báo cáo lãnh đạo Bộ có hướng dẫn, giải đáp cụ thể nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật được thống nhất và sớm tháo gỡ các vướng mắc của địa phương. Tôi cũng đề nghị các đồng chí lãnh đạo các Sở Tư pháp, thủ trưởng các tổ chức pháp chế bộ, ngành tích cực trao đổi các kinh nghiệm, mô hình hay trong triển khai công tác tư pháp của các địa phương, đơn vị bạn để nghiên cứu áp dụng vào việc chỉ đạo, điều hành công tác ở địa phương, đơn vị mình. Có như vậy, chúng ta mới chủ động vượt qua khó khăn, khắc phục được những hạn chế, tồn tại của năm vừa qua, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trong phần phương hướng công tác của Ngành Tư pháp năm 2005, các đại biểu cũng cơ bản thống nhất về 9 định hướng lớn của công tác tư pháp trong năm 2005. Các đồng chí cũng nhất trí với lãnh đạo Bộ trong vấn đề xác định 7 nhiệm vụ công tác trọng tâm mà chúng ta phải tập trung cao độ để chỉ đạo thực hiện trong năm 2005 này.
Trước hết, về xây dựng thể chế, tôi không nhắc lại những ý trong phương hướng và trong dự thảo chỉ thị, nhưng ở đây có thể nói rằng, năm 2005 đặt ra cho Ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp, pháp chế các bộ, ngành một nhiệm vụ rất nặng nề trong vấn đề xây dựng thể chế. Trong ngày đầu tiên của Hội nghị tôi có nhắc lại số lượng 71 dự án luật, pháp lệnh mà các cơ quan phải trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Trong 71 dự án luật, pháp lệnh đó, Bộ Tư pháp đều phải tham gia soạn thảo và trực tiếp chủ trì soạn thảo 5 luật, 6 pháp lệnh, chưa nói đến hàng trăm nghị định của Chính phủ mà Bộ được giao chủ trì, tham gia soạn thảo và thẩm định. Chúng tôi rất lo, trước đây Quốc hội trong một năm chỉ thông qua từ 10 - 12 luật và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua 15 - 16 pháp lệnh. Bây giờ số lượng văn bản cần xây dựng mỗi năm đã tăng lên gấp 2 - 3 lần so với những năm trước đây, nhưng đội ngũ cán bộ cũng như điều kiện, phương tiện làm việc của chúng ta vẫn chưa có gì thay đổi đáng kể. Như vậy, vấn đề đặt ra là cách thức tổ chức công việc, điều hành, phối hợp trong công việc và nghị lực, ý chí của chúng ta thì mới có thể đảm đương được khối lượng công việc lớn như vậy. Các đồng chí ở các cơ quan tư pháp địa phương năm nay phải triển khai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân. Về vấn đề này, hiện nay Bộ đang tập trung chỉ đạo xây dựng nghị định hướng dẫn và chuẩn bị triển khai tập huấn Luật, có thể tổ chức theo 3 khu vực ở 3 miền. Vừa rồi, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã tổ chức Hội nghị riêng về quán triệt và triển khai Luật cho lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân một số tỉnh, thành phố. Nhưng trách nhiệm của các đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp là ngay từ bây giờ phải chủ động tham mưu cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, quán triệt đạo luật quan trọng này đến lãnh đạo các cấp chính quyền, các sở, ban, ngành ở địa phương; rà soát lại đội ngũ cán bộ làm công tác soạn thảo, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương và nếu cần thiết thì có đề án báo cáo Uỷ ban nhân dân xem xét, tăng cường biên chế, năng lực cho đội ngũ này cũng như các điều kiện về kinh phí, phương tiện làm việc để bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của Luật. Những công việc này phải triển khai xong trước ngày 01/4/2005, khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân có hiệu lực, do đó thời gian không còn nhiều. Sắp tới, các đồng chí cũng phải tập trung giúp Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) và hoàn thành việc rà soát văn bản của địa phương phục vụ việc gia nhập WTO. Đây là những nhiệm vụ nặng nề, các đồng chí cần ưu tiên dành thời gian để chỉ đạo triển khai. Ngay trong tháng 12 năm 2004 và tháng giêng năm 2005 này, Chính phủ đã thông báo kế hoạch rất cụ thể cho từng bộ, ngành.
Tại kỳ họp cuối năm vừa rồi, Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã xác định xây dựng thể chế là trách nhiệm của Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong quản lý nhà nước và các đồng chí đó phải trực tiếp nắm, trực tiếp chỉ đạo và ưu tiên mọi nguồn lực để thực hiện tốt chương trình này.
Tôi nghĩ rằng với một yêu cầu cao như vậy, với một khối lượng công việc lớn như vậy, thì chúng ta ngoài quyết tâm cao còn phải đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm, huy động mọi lực lượng, phát huy trí tuệ tập thể và đề cao trách nhiệm của từng cá nhân thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trong công tác xây dựng thể chế, tôi cũng xin lưu ý các đồng chí một điểm nữa là trong năm nay, Ngành Tư pháp không thể để tình trạng cứ tiếp tục như các năm trước là các cơ quan ở địa phương chờ văn bản hướng dẫn của Chính phủ, của Bộ nhưng việc soạn thảo, trình các văn bản này lại rất chậm. Pháp lệnh Thi hành án dân sự (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 01/7/2004, đến bây giờ chúng ta mới có được 02 nghị định đã ban hành. Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 30-CP về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên đã được các thành viên Chính phủ cho ý kiến, hiện đang trình Thủ tướng xem xét, quyết định. Nghị định thay thế Nghị định số 86-CP về bán đấu giá tài sản, Bộ Tư pháp cũng đã làm rất quyết liệt. Lãnh đạo Bộ đã nhiều lần làm việc trực tiếp với lãnh đạo Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ để xác định mô hình Trung tâm bán đấu giá tài sản. Ngày 30/12/2004 Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 7118/VPCP-PC thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng về vấn đề này với tinh thần đẩy mạnh xã hội hoá công tác bán đấu giá tài sản. Trong trường hợp cần thiết thì mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ thành lập một trung tâm bán đấu giá hoạt động dưới hình thức một đơn vị sự nghiệp để thực hiện bán đấu giá các loại tài sản theo quy định của pháp luật; ở những nơi hiện có nhiều trung tâm thuộc các Sở khác nhau cần được gom vào một đầu mối. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của trung tâm bán đấu giá là thực hiện việc bán đấu giá tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án... Hiện nay, Bộ đang tích cực phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính để hoàn chỉnh lại dự thảo Nghị định này theo tinh thần ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng để trình Chính phủ ban hành ngay trong tháng 01/2005. Do đó, đề nghị các đồng chí Giám đốc Sở theo dõi sát để khi có Nghị định mới thì nghiên cứu kỹ để chủ động tham mưu ngay cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố triển khai thực hiện đúng quy định của Nghị định.
Kiểm tra văn bản cũng là một mảng quan trọng của công tác xây dựng thể chế. Năm 2005, tôi đề nghị các đồng chí tập trung giúp lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương làm tốt, làm có kết quả cả mảng tự kiểm tra và kiểm tra theo thẩm quyền. Trước hết, cần chấn chỉnh việc gửi văn bản để kiểm tra theo đúng quy định của Nghị định số 135/2003/NĐ-CP. Cơ quan kiểm tra cũng không nên chỉ ngồi chờ văn bản gửi đến để kiểm tra mà định kỳ phải tổ chức các đợt kiểm tra theo chuyên đề, các đoàn kiểm tra đến tận nơi ban hành văn bản để xem xét. Các đồng chí cũng cần chú ý những lĩnh vực có nhiều bức xúc, được dư luận quan tâm để có kế hoạch kiểm tra kịp thời, đưa công tác này thực sự gắn kết, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương. Khi phát hiện văn bản có dấu hiệu trái pháp luật và thông báo cho cơ quan ban hành văn bản tự kiểm tra, xử lý thì các đồng chí phải phối hợp chặt chẽ, bảo đảm 100% số văn bản có dấu hiệu trái pháp luật được xem xét, xử lý kịp thời theo đúng quy định. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện thể chế và kiểm tra văn bản, kiện toàn tổ chức, tăng cường biên chế chuyên trách, mở rộng đội ngũ cộng tác viên, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ, bảo đảm kinh phí và các điều kiện cần thiết khác. Bộ cũng đã đề xuất với Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác này trong năm nay.
Vấn đề thứ hai là tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức ngành, bây giờ có cơ sở pháp lý rồi nhưng vấn đề là tổ chức thực hiện, tôi xin nói hai ý: Thứ nhất là về tổ chức, thứ hai là về xây dựng đội ngũ cán bộ.
Về tổ chức, chúng ta rất mừng là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 172/2004/NĐ-CP xác định Phòng Tư pháp thuộc cơ quan “cứng” trong các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Ngay trong năm 2004, nhiều địa phương trong số 14 tỉnh, thành phố có Phòng Tư pháp bị sáp nhập theo Nghị định số 12/2001/NĐ-CP trước đây đã kịp thời có quyết định tái lập Phòng Tư pháp (Hà Nội, Nghệ An...). Ở những địa phương khác, tôi đề nghị nơi nào Thường trực tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân có ý kiến băn khoăn, chưa thống nhất về vấn đề này thì các đồng chí Giám đốc Sở có trách nhiệm báo cáo ngay với Ban Cán sự, lãnh đạo Bộ và Bộ sẽ trực tiếp xuống làm việc với cấp uỷ, chính quyền ở đó để có thể giải quyết dứt điểm vấn đề này trong quý I, cùng lắm là quý II của năm nay. Tôi nhận thấy rằng, đây không phải là việc làm vì lợi ích của Ngành Tư pháp mà vấn đề ở đây là chúng ta thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước giao và trong Nghị định số 172/2004/NĐ-CP cũng đã quy định rõ là trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày Nghị định có hiệu lực thi hành (ngày 21/10/2004), Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải chỉ đạo, hoàn thành việc sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Nơi nào không thực hiện như vậy là chưa chấp hành nghiêm túc Nghị định của Chính phủ. Trách nhiệm của địa phương, phối hợp với Sở Nội vụ để sớm kiện toàn hệ thống Phòng Tư pháp. Về Thông tư liên tịch thay thế Thông tư số 12, có nhiều đồng chí cũng đề nghị Bộ sớm ban hành, chúng tôi xin khẳng định sẽ phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư này ngay sau khi Chính phủ thông qua Nghị định sửa đổi Nghị định số 30 về tổ chức cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên.
Liên quan đến tổ chức pháp chế bộ, ngành, có nhiều đại biểu đề nghị Bộ hướng dẫn cụ thể. Vấn đề này Bộ đã giao cho Vụ Pháp luật dân sự, kinh tế phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng dự thảo thông tư hướng dẫn. Hiện nay, dự thảo thông tư về tổ chức đã được Bộ Nội vụ thống nhất, sẽ ký ban hành ngay trong tháng 01/2005; dự thảo thông tư về nghiệp vụ đang được gửi lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương. Chúng tôi sẽ sớm tiếp thu ý kiến, hoàn thiện để ban hành trong quý I này. Về nghiệp vụ, có đồng chí hỏi vấn đề tổ chức pháp chế doanh nghiệp tham gia tư vấn về mặt pháp luật cho Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, giám đốc các doanh nghiệp nhà nước không được quy định rõ trong Nghị định số 122/2004/NĐ-CP. Tôi thấy rằng, trong Nghị định đã quy định 4 nhiệm vụ cụ thể của tổ chức pháp chế, trong đó nhiệm vụ thứ tư là thực hiện các nhiệm vụ khác theo quyết định của Thủ trưởng các doanh nghiệp. Theo tôi, Thủ trưởng doanh nghiệp yêu cầu tổ chức pháp chế tư vấn các khía cạnh pháp lý về soạn thảo, ký kết hợp đồng, giải phóng tranh chấp trong kinh doanh... thì cũng phù hợp với quy định của nghị định. Trong thông tư hướng dẫn về nghiệp vụ phải nêu rõ vấn đề này để các đồng chí có cơ sở pháp lý thực hiện.
Về công tác cán bộ, xin thưa các đồng chí đây là vấn đề đang có nhiều khó khăn. Sau kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân vừa qua, đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã, phường có biến động lớn, nhiều đồng chí trúng cử vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Điều này có cái đáng mừng là các đồng chí được nhân dân tín nhiệm, trưởng thành, những cái đáng lo là đội ngũ cán bộ tư pháp ở cơ sở của chúng ta lại bị thiếu hụt lớn, nhiều đồng chí mới được bổ sung lại chưa qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chưa có kinh nghiệm. Ở vùng sâu, vùng xa, nhiều đồng chí cán bộ tư pháp chỉ có trình độ văn hoá lớp 4, lớp 5. Bên cạnh đó, theo tinh thần cải cách hành chính, phân cấp mạnh thì nhiệm vụ được giao cho tư pháp cấp xã ngày càng nhiều. Qua ý kiến của các đại biểu tại Hội nghị, tôi biết nhiều đồng chí có băn khoăn như công việc, trách nhiệm nặng nề như vậy thì cán bộ tư pháp cấp xã với định suất 1 biên chế có đảm đương nổi hay không nhưng cũng có không ít đồng chí cho rằng cần phân cấp và phân cấp là đúng. Tôi thấy rằng, đây là chủ trương của Đảng, của Chính phủ, chúng ta có trách nhiệm triển khai thực hiện. Trước mắt có thể có một số khó khăn, nhưng từng bước chúng ta phải nghiên cứu, tìm cách tháo gỡ. Về vấn đề này, tôi đề nghị Vụ Tổ chức cán bộ, Trường Đại học Luật Hà Nội và Học viện Tư pháp trong quý I, muộn nhất là quý II năm nay phải xây dựng, trình lãnh đạo Bộ đề án đào tạo bồi dưỡng, tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện, cấp xã. Tôi cũng đề nghị các đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp phải năng động, bám sát tình hình ở cơ sở, tranh thủ sự ủng hộ tối đa của cấp uỷ, chính quyền địa phương để giải quyết khó khăn, tạo điều kiện để tư pháp cơ sở hoàn thành nhiệm vụ.
Còn về chức danh, tiêu chuẩn cán bộ mà có một số ý kiến đề cập, tôi thấy rằng vấn đề này đã được quy định rõ trong các văn bản của Chính phủ, Bộ Nội vụ. Ví dụ gần đây, Bộ trưởng Bộ Nội vụ mới ban hành văn bản quy định tiêu chuẩn của Giám đốc Sở, đề nghị các đồng chí tìm nghiên cứu.
Về chế độ chính sách, cũng xin nói để các đồng chí rõ là khi xây dựng lương mới. Bộ chúng ta đã làm việc rất nhiều lần với bộ phận biên tập của Ban chỉ đạo chính sách tiền lương về lương của chấp hành viên, công chứng viên và các chức danh tư pháp mà Ngành ta quản lý. Nhưng như các đồng chí biết, chế độ lương mới có rất ít nhóm lương, nhóm của chúng ta nằm trong nhóm lương hành chính sự nghiệp, chỉ được hưởng thêm một số chế độ ưu đãi đặc thù. Vấn đề này ở thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành phố khác, cấp uỷ, chính quyền địa phương có sự quan tâm rất lớn, có chính sách hỗ trợ thêm cho cán bộ tư pháp một số phụ cấp. Đây là bài học tốt mà các đồng chí cần tham khảo, nghiên cứu để có đề nghị cụ thể với cấp uỷ, chính quyền ở địa phương mình.
Về công tác thi hành án dân sự, các đồng chí đề cập nhiều, trong chỉ thị cũng đã nói rõ, tôi chỉ xin nói gọn mấy ý. Thứ nhất, về thể chế, trong quý I này phải cố gắng xong, nhất là các thông tư hướng dẫn. Thứ hai, chúng ta phải kiên quyết xóa bỏ tình trạng còn 93 Đội Thi hành án chỉ có một chấp hành viên và 30 đội chưa có Đội trưởng. Vấn đề này có thiếu sót của lãnh đạo Bộ, chúng tôi xin nhận khuyết điểm trước các đồng chí là Bộ chưa làm quyết liệt với các bộ, ngành để Chính phủ sớm ban hành Nghị định thay thế Nghị định 30 về tổ chức cơ quan thi hành án và chấp hành viên. Trong quý I năm 2005 chắc chắn vấn đề này phải xong. Bây giờ tên gọi của cơ quan thi hành án dân sự địa phương trong dự thảo nghị định gửi xin ý kiến các thành viên Chính phủ xin thông báo với các đồng chí là chỉ còn một phương án: Chi cục Thi hành án ở tỉnh, Phòng Thi hành án ở huyện. Hiện giờ Văn phòng Chính phủ đang tập hợp ý kiến của các thành viên Chính phủ, Thủ tướng chưa quyết định, nhưng phương án trình là như vậy. Tuy nhiên, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thi hành án, trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân và Sở Tư pháp đối với công tác thi hành án ở địa phương thì vẫn hoàn toàn trên tinh thần như dự thảo trước đây đã gửi các đồng chí, không có gì thay đổi.
Vấn đề uỷ quyền của Bộ trưởng cho các đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp trong việc quản lý các cơ quan thi hành án dân sự địa phương vẫn giữ nguyên, thậm chí còn phân cấp nhiều hơn, mạnh hơn. Có đồng chí nói rằng, Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp tỉnh có quyền điều động chấp hành viên của Đội thi hành án, nhưng theo Quyết định số 141 của Bộ ban hành năm 1994 thì thẩm quyền này được Bộ trưởng phân cấp cho Giám đốc Sở Tư pháp. Còn về tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên, trong Pháp lệnh đã quy định rất rõ, chúng ta phải tuân theo, mặc dù đúng ở nhiều nơi đang còn thiếu chấp hành viên. Đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp Đăk Nông có đề nghị nên giảm tiêu chuẩn về thời gian làm công tác pháp luật để được bổ nhiệm làm chấp hành viên cấp huyện xuống còn 3 năm (theo quy định của Pháp lệnh là 4 năm). Đồng chí Hiệp - Giám đốc Sở Tư pháp Gia Lai cũng có đề nghị xem xét tổ chức thi tuyển hay xét tuyển cán bộ vào cơ quan thi hành án, vì một số cơ quan tư pháp khác chỉ tổ chức xét tuyển. Đây là những vấn đề đã được pháp luật quy định nên tôi đề nghị về nguyên tắc, chúng ta phải chấp hành theo đúng pháp luật, nếu có thì chỉ có thể linh động đối với một số ít trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thiếu nguồn cán bộ, nhưng phải có đề nghị của cấp uỷ, chính quyền và qua Hội đồng tuyển chọn. Các đồng chí cũng phải nghiên cứu, vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết cho phù hợp. Ví dụ, theo Nghị định số 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước thì viên chức được tuyển dụng thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển, còn theo Nghị định số 117/2003/NĐ-CP (cùng ngày) về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước thì về nguyên tắc, tuyển dụng công chức phải thông qua thi tuyển. Đối với người tình nguyện làm việc từ 5 năm trở lên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo hoặc để đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở vùng dân tộc ít người thì việc tuyển dụng có thể thực hiện thông qua xét tuyển. Về mặt quy định, theo tôi như vậy là rõ, không cần giải thích thêm, đề nghị các đồng chí nghiên cứu kỹ để thực hiện cho đúng.
Về chỉ tiêu thi hành án, trong dự thảo chỉ thị nêu là cố gắng đạt 80% về việc, 50% về tiền đối với số vụ việc có điều kiện thi hành. Có ý kiến cho rằng cao, khó khả thi nhưng tôi đề nghị giữ nguyên chỉ tiêu này. Cũng có ý kiến đề nghị cần nâng lên cao hơn, ví dụ như Đồng chí Trưởng Phòng Thi hành án Quảng Bình sáng nay có nêu là ở Quảng Bình thi hành đạt 97% về việc, hơn 70% về tiền, nhưng nhìn chung bình quân cả nước đề ra chỉ tiêu đạt được 80% về việc, 50% về tiền tôi cho là khả thi, nếu cả Bộ, cả địa phương chúng ta quyết tâm, tập trung chỉ đạo và có giải pháp tốt. Kinh nghiệm cách làm ở Long An, Hải Phòng và một số địa phương khác mà các đồng chí đều đã nghe giúp chúng ta củng cố niềm tin đó.
Vấn đề giải quyết tình trạng án không có điều kiện thi hành, cơ sở pháp lý thực hiện miễn, giảm các khoản án phí, tiền phạt đã có, vấn đề là hướng dẫn thi hành và tổ chức thực hiện. Như tôi đã đề cập ở trên, Bộ sẽ phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sớm ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn vấn đề này cũng như phối hợp với Bộ Tài chính sớm hoàn chỉnh và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về hỗ trợ ngân sách để bảo đảm thi hành án, nhưng tôi đề nghị các đồng chí Giám đốc Sở, Thủ trưởng các cơ quan thi hành án phải có sự chủ động chuẩn bị, trước mắt là trong quý I phải hoàn thành việc rà soát, phân loại án không có điều kiện thi hành, có kế hoạch trao đổi, phối hợp trước với các ngành ở địa phương để khi có văn bản hướng dẫn là chúng ta có thể triển khai được ngay. Chỉ tiêu của Bộ đặt ra là phấn đấu đến hết quý III năm 2005 thực hiện miễn, giảm xong ít nhất 50% số vụ việc có đủ điều kiện miễn, giảm.
Vấn đề lớn hiện nay là giải quyết các vụ việc thi hành án có điều kiện thi hành nhưng còn tồn đọng do có khiếu kiện bức xúc, kéo dài. Tôi nghĩ rằng trong năm 2005 này, các đồng chí phải xây dựng quyết tâm, có đề án, kế hoạch cụ thể báo cáo Ban chỉ đạo thi hành án, phối hợp với các ngành hữu quan ở địa phương để tập trung giải quyết dứt điểm. Đối với lãnh đạo Bộ Tư pháp bây giờ không có sáng nào, ngày nào mà không có bà con ở các địa phương đến khiếu nại về thi hành án. Vấn đề này không phải chỉ dừng lại ở Bộ mà bà con còn khiếu nại lên tận các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Tôi nghĩ chúng ta phải xem lại, kiểm tra thật kỹ những vụ việc nào không thể giải quyết được thì phải xác định rõ trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân để thi hành cho xong. Trong năm 2004, do có sự quyết tâm và phối hợp tốt nên một số vụ việc tồn đọng phức tạp lâu năm chúng ta đã giải quyết được.
Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong bài phát biểu của Thủ tướng trước Hội nghị đã giao cho ngành ta cần chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng; triển khai giai đoạn I của Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 mới được Thủ tướng phê duyệt cuối năm 2004 và tiếp tục triển khai có hiệu quả 4 đề án thuộc Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ giai đoạn 2003 - 2007. Đó là những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2005, đề nghị các đồng chí quan tâm, cũng đề nghị các đồng chí lưu ý, nhiệm vụ của Ngành ta là quản lý nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hướng dẫn, làm đầu mối phối hợp các hoạt động trong lĩnh vực này và thường trực cho Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp. Chúng ta phải lên kế hoạch chung, định hướng chỉ đạo, phân công trách nhiệm, hướng dẫn cách triển khai và trực tiếp thực hiện một số công việc, nhưng không phải ôm đồm làm hết mọi việc. Nếu vậy sẽ không hiệu quả, vì các đồng chí không thể có đủ cán bộ, kinh phí, thời gian để làm. Các đồng chí phải tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương, như ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các ngành, các cấp cho công tác này. Kinh nghiệm cách làm có hiệu quả ở nhiều địa phương cho thấy, khi triển khai phổ biến một văn bản mới nào đó, ví dụ Luật Đất đai chẳng hạn, thì Sở Tư pháp cần phối hợp chặt chẽ với Sở Tài nguyên, Môi trường, giúp họ xây dựng kế hoạch, đề cương tuyên truyền chi tiết, tài liệu, v.v... và bản thân Sở Tài nguyên, Môi trường phải đứng ra báo cáo Uỷ ban nhân dân đề nghị cấp kinh phí, huy động lực lượng để làm chứ không phải các đồng chí đứng ra nhận trách nhiệm làm thay. Hình thức, phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật cũng phải đa dạng, phù hợp với từng loại đối tượng, địa bàn, tránh máy móc, rập khuôn. Ví dụ, tuyên truyền pháp luật về tôn giáo thì hình thức phải khác với tuyên truyền pháp luật về doanh nghiệp. Cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa bàn đô thị cũng khác với ở nông thôn. Một điểm nữa cũng đề nghị các đồng chí chú ý là các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong năm 2005 cần triển khai toàn diện nhưng tránh dàn trải mà phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung trước hết cho cấp cơ sở, chú trọng địa bàn có nhiều khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, các lĩnh vực đang có nhiều bức xúc như trật tự an toàn giao thông, đất đai, cải cách hành chính, chính sách dân tộc, tôn giáo, chống tham nhũng, lãng phí v.v...
Về công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, tôi chỉ xin nói gọn tinh thần chỉ đạo của Bộ năm 2005 đối với những lĩnh vực này là tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp thẩm quyền giải quyết, đơn giản hoá thủ tục, đề cao ý thức trách nhiệm, thái độ phục vụ, đưa hoạt động này gần dân hơn, đáp ứng kịp thời nhu cầu của nhân dân, cán bộ của chúng ta phải chủ động đến với dân, không thể chờ người dân đến với chúng ta để đăng ký khai sinh, mà chúng ta phải biết nơi nào, gia đình nào để đến vận động người dân kịp thời đăng ký khai sinh.
Tại Hội nghị chuyên đề về công tác hộ tịch, các đồng chí cũng đã nhất trí cao về những bài học kinh nghiệm rút ra cũng như những thách thức mới đặt ra trong công tác hộ tịch, thảo luận giải pháp để tiếp tục giữ vững và phát huy những thành quả đã đạt được trong công tác hộ tịch qua hai “chiến dịch” đăng ký hôn nhân thực tế và đăng ký khai sinh năm vừa qua. Tôi đề nghị các đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp cần tiếp tục chỉ đạo để từng xã, phường, thị trấn làm tốt công tác hộ tịch một cách thường xuyên hơn để không phải một vài năm lại phải mở chiến dịch “thanh toán nợ” như vậy. Sắp tới, Bộ dự kiến trình Chính phủ phân cấp một số việc đăng ký hộ tịch hiện nay thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể uỷ quyền số việc đăng ký hộ tịch còn lại cho Giám đốc Sở Tư pháp giải quyết. Như thế sẽ đỡ công việc sự vụ cho các đồng chí lãnh đạo địa phương hơn, bớt hình thức mà công việc có thể được giải quyết nhanh hơn, nhưng các đồng chí ở cấp xã sẽ bận hơn. Thủ tướng Chính phủ cũng đã cho phép thí điểm thực hiện phân cấp cho Uỷ ban nhân dân cấp xã tại thành phố Hồ Chí Minh chứng thực các bản sao giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ, vấn đề còn lại là chúng ta phải hướng dẫn, rà soát lại đội ngũ cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã, tư pháp bồi dưỡng nghiệp vụ cho họ. Tôi đề nghị đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh quan tâm sớm triển khai công tác này.
Một vấn đề quan trọng nữa là chúng ta phải tăng cường kiểm tra, thanh tra, chấn chỉnh kịp thời các sai phạm và kiên quyết xử lý các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động công chứng, chứng thực, đăng ký hộ tịch. Trách nhiệm này trước hết thuộc về các đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp phải vào cuộc. Chúng ta phải kiên quyết tuyên chiến với tình trạng “cò” công chứng ở một số Phòng Công chứng, tình trạng nhũng nhiễu của một số cán bộ hộ tịch khi giải quyết công việc của công dân. Ở đâu để xảy ra tình trạng này thì ngoài những cán bộ có liên quan trực tiếp phải chịu trách nhiệm kỷ luật thích đáng, Trưởng Phòng công chứng, Trưởng Phòng quản lý hộ tịch và Giám đốc Sở Tư pháp cũng phải được xem xét về trách nhiệm quản lý. Với tinh thần như vậy chúng ta mới khắc phục được những tồn tại, hạn chế trong công tác này mà Thủ tướng Chính phủ đã chỉ ra tại Hội nghị. Chúng tôi đã giao cho Giám đốc Sở Tư pháp Hà Nội kiểm tra, làm rõ các sự việc mà Thủ tướng đề cập để báo cáo lãnh đạo Bộ, Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố. Nếu có vi phạm thì yêu cầu phải xử lý nghiêm để làm gương cho các cán bộ làm công tác hộ tịch ở cơ sở.
Theo tinh thần trên, tôi đề nghị Vụ Hành chính - Tư pháp, Cục Con nuôi quốc tế phối hợp với các đơn vị chuyên môn của Bộ sớm hoàn chỉnh dự thảo các nghị định sửa đổi Nghị định số 83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để lãnh đạo Bộ xem xét trình Chính phủ trong quý I năm 2005. Hiện Bộ cũng đã trình Thủ tướng Chính phủ chỉ thị về tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, đề nghị các đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp có kế hoạch phối hợp với các ban, ngành hữu quan ở địa phương tham mưu cho Uỷ ban nhân dân triển khai thực hiện tốt (nhất là khắc phục những bất cập trong việc quản lý công tác kết hôn với người nước ngoài ở một số địa phương) ngay sau khi Thủ tướng ký ban hành chỉ thị.
Trong công tác bổ trợ tư pháp, ngoài việc triển khai nghị định mới của Chính phủ về bán đấu giá tài sản tôi đã đề cập ở trên, nhiệm vụ trọng tâm năm 2005 cần tăng cường công tác quản lý nhà nước, tập trung phát triển mạnh về số lượng và không ngừng nâng cao chất lượng, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ luật sư, tổng kết 3 năm thực hiện Pháp lệnh luật sư và triển khai thi hành Pháp lệnh giám định tư pháp. Trong dự thảo chỉ thị đã đề cập cụ thể, tôi xin phép không nhắc lại ở đây.
Về công tác chỉ đạo, điều hành, kể cả đối với Bộ và các Sở Tư pháp, một bài học kinh nghiệm mà tôi vẫn nói là khi chúng ta chỉ đạo tốt, đeo bám công việc, kiểm tra hướng dẫn thường xuyên thì hiệu quả công việc, chất lượng công tác tốt hơn; còn nơi nào, khi nào chúng ta buông lỏng công tác quản lý thì nơi đó, khi đó trì trệ, chất lượng công tác kém. Các đồng chí trách chúng tôi là ít đi địa phương để làm việc với cấp uỷ, chính quyền địa phương, trong năm 2004 mới đến được một số tỉnh, thành phố. Điều này cũng xin nói rõ với các đồng chí là ngay từ đầu năm chúng tôi đã có kế hoạch và phân công cụ thể, nhưng do công việc quá nhiều nên không thể thu xếp như dự kiến được. Trong năm 2005, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ, các Sở Tư pháp tiếp tục và cố gắng thực hiện được chủ trương hướng về cơ sở này. Tinh thần chỉ đạo là phải bám sát thực tiễn, nhất là những nơi có nhiều khó khăn, khối lượng công việc lớn, địa bàn quan trọng để nắm tình hình và trực tiếp chỉ đạo.
Chúng ta cũng cần đổi mới cách hội họp. Trong năm 2004, qua rà soát lại các cuộc họp, hội nghị mà theo yêu cầu của các đơn vị cần phải triệu tập các đồng chí Giám đốc Sở về trung ương thì đã cắt giảm được 16 cuộc so với kế hoạch. Năm nay tinh thần cũng sẽ tiếp tục như vậy, để dành thời gian cho các đồng chí tập trung vào việc chỉ đạo, điều hành công tác và chỉ đạo thật cần thiết, cần quán triệt chủ trương, chính sách mới hoặc có những việc quan trọng của Ngành thì mới triệu tập các đồng chí và cố gắng tổ chức theo khu vực. Mỗi lần họp, hội nghị, đề nghị các đơn vị phải chuẩn bị nội dung rất kỹ, tổ chức ngắn gọn và phải tiết kiệm.
Một vấn đề nữa, tôi đề nghị năm nay chúng ta phải triển khai ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong các hoạt động nghiệp vụ và công tác chỉ đạo, điều hành. Trong Hội nghị này, các đồng chí đã được nghe kinh nghiệm của một số đại biểu ở cả các cơ quan trung ương và địa phương đề cập đến các lợi ích của vấn đề này. Ngay trong phiên họp cuối năm 2004 vừa rồi, Chính phủ đã nghe Bộ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông báo cáo về đề án Chính phủ điện tử, trong đó đặt ra mục tiêu là xây dựng Chính phủ hiện đại, chuyên nghiệp thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Hiện nay, ở thành phố Hồ Chí Minh một số hoạt động công chứng, đăng ký quản lý hộ tịch và công tác điều hành đã ứng dụng công nghệ thông tin. Ở Bộ hiện đã có Trung tâm Tin học, lãnh đạo Bộ đã giao nhiệm vụ cho Trung tâm là trong năm 2005 phải giúp lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các đơn vị quản lý, điều hành qua mạng tin học. Đầu giờ sáng hàng ngày, các đồng chí đến cơ quan, bật máy tính lên là có thể biết được trong ngày có vấn đề gì được giao cho đơn vị cần phải làm, những vấn đề gì chưa làm xong. Qua mạng, lãnh đạo Bộ cũng có thể chủ động nắm được một cách cập nhật, thường xuyên tình hình giải quyết công việc của các đơn vị, tiến độ soạn thảo, thẩm định các văn bản để đôn đốc, nhắc nhở. Chúng ta cũng phải sớm xây dựng hệ thống thư điện tử để trao đổi thông tin được nhanh chóng, thuận tiện. Nếu làm được như vậy thì sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian trong việc phối hợp, xử lý công việc, giảm được khối lượng lớn giấy tờ, tiết kiệm được kinh phí. Chúng ta cũng đã có một số dự án hợp tác quốc tế hỗ trợ cả phần mềm và các thiết bị phần cứng cho mục đích đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong Ngành chúng ta (Dự án cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật của Sida, Dự án tin học hoá công chứng của Pháp, Dự án xây dựng hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của ADB...), tôi đề nghị các đồng chí quan tâm vấn đề này.
Cuối cùng, tôi muốn đề cập thêm về vấn đề tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thực hành tiết kiệm và công tác kiểm tra, thanh tra. Hôm qua, tôi có nhắc các đồng chí là cuối giờ có nhiều đồng chí vắng mà không có lý do. Trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ hiện nay, các phiên họp Chính phủ đều điểm danh từng đồng chí từ Thủ tướng, Phó Thủ tướng cho đến các Bộ trưởng, đồng chí nào nghỉ buổi nào đều được ghi lại. Tôi đề nghị chúng ta cũng phải làm việc với tinh thần trách nhiệm cao như vậy. Bây giờ có tình trạng họp, hội nghị mời đúng thành phần nhưng đi không đủ, đi đến nơi rồi thì chỉ họp nửa buổi sau đó ra về không xin phép. Có đồng chí cán bộ của chúng ta đi đâu, làm gì Thủ trưởng không biết, Thủ trưởng đơn vị đi địa phương lãnh đạo Bộ không hay. Tôi nghĩ tình trạng này không thể chấp nhận được. Chúng ta nói hiện đại hoá, tăng cường kỷ luật hành chính thì càng không thể để xảy ra tình trạng vô ý thức kỷ luật như vậy.
Về quản lý kinh phí, chỉ tiêu ngân sách, tôi cũng đề nghị các đơn vị dự toán của Ngành phải đề cao kỷ luật tài chính, quản lý chặt chẽ, chấp hành đúng chế độ, định mức quy định với tinh thần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nhân đây, tôi xin nhắc lại và đề nghị các đơn vị trong toàn Ngành nghiêm túc quán triệt Chỉ thị số 47-CT/TW ngày 30/12/2004 của Ban Bí thư và Chỉ thị số 48/2004/CT-TTg ngày 24/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc tổ chức đón Tết Nguyên đán và những ngày lễ lớn trong năm 2005. Tinh thần chỉ đạo là các hoạt động đón Tết cần được tổ chức vui tươi, an toàn, lành mạnh, triệt để tiết kiệm, chống xa hoa, lãng phí, không mang hoa, quà đến nhà riêng các đồng chí lãnh đạo để chúc Tết, dành thời gian nghỉ tết chủ yếu cho gia đình và thăm hỏi họ hàng, người thân; tổ chức chu đáo việc thăm hỏi, động viên thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sỹ, các gia đình có công với cách mạng, gia đình thuộc diện chính sách, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, cán bộ và chiến sỹ các đơn vị lực lượng vũ trang, các đồng chí cán bộ lão thành của Ngành. Các đơn vị không được lợi dụng dịp lễ, Tết để tổ chức liên hoan, ăn uống lãng phí; sử dụng tiền, tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc có nguồn gốc từ ngân sách, từ công quỹ, từ các nguồn tài trợ để thưởng, biếu, tặng cho các tổ chức và cá nhân dưới mọi hình thức không đúng chế độ quy định của Nhà nước. Những đơn vị được trích quỹ thưởng theo chế độ cho đơn vị, cá nhân có công phối hợp, giúp đỡ trong công tác thì phải công khai danh sách thưởng và mức thưởng cho toàn thể cơ quan, đơn vị biết. Không được sử dụng xe công để phục vụ các hoạt động cá nhân, đi chơi tốn kém trong dịp Tết.
Về công tác kiểm tra, thanh tra năm 2005, cần tiếp tục đẩy mạnh với tinh thần thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của dưới, trước hết để phòng ngừa các sai phạm trong công tác quản lý và thực thi trách nhiệm công vụ của từng cán bộ, công chức trong Ngành. Khi đã phát hiện ra sai phạm rồi thì phải kiên quyết xử lý, chứ không phải thanh tra để rồi đe nẹt, trù dập. Vấn đề tăng cường kiểm tra, thanh tra các hoạt động công chứng, hộ tịch tôi đã đề cập trên đây. Vừa rồi, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến về các định hướng lớn của kế hoạch thanh tra năm 2005 của Thanh tra Chính phủ, tập trung vào thanh tra công tác đầu tư xây dựng, quản lý sử dụng đất đai, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Thủ tướng cũng yêu cầu Thanh tra Bộ Nội vụ tăng cường công tác thanh tra công vụ nhằm đề cao ý thức trách nhiệm, tinh thần kỷ luật của đội ngũ cán bộ công chức trong khi thi hành công vụ. Tôi đề nghị cũng với tinh thần đó, liên hệ đến phạm vi quản lý và các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành ta, đồng chí Chánh thanh tra Bộ khẩn trương xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2005 để báo cáo lãnh đạo Bộ phê duyệt thực hiện ngay sau Hội nghị này.
Thưa các đồng chí!
Đây là những định hướng lớn, những vấn đề trọng tâm tôi xin nhắc lại và chỉ thị cho các đồng chí Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, tổ chức pháp chế bộ, ngành, các đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp, Thủ trưởng các cơ quan thi hành án và các đơn vị khác trong toàn Ngành quán triệt và triển khi thực hiện ngay từ đầu năm. Sau Hội nghị này, Ban tổ chức Hội nghị sẽ chỉ đạo tiếp thu ý kiến của các đồng chí hoàn chỉnh lại các báo cáo, dự thảo chỉ thị công tác trọng tâm năm 2005 để sớm ban hành, gửi cho các đồng chí. Về bài phát biểu quan trọng của Thủ tướng tại Hội nghị của chúng ta, Báo Nhân dân số ra ngày 05/01/2005 đã đăng toàn văn, đề nghị các đồng chí nghiên cứu, quán triệt và nghiêm túc triển khai thực hiện.
Thay mặt Ban Cán sự, Lãnh đạo Bộ, Ban tổ chức Hội nghị, tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí đã về dự Hội nghị, tích cực tham gia thảo luận có nhiều ý kiến rất xác đáng, góp phần vào thành công của Hội nghị.
Nhân dịp năm mới, thay mặt Lãnh đạo Bộ, tôi xin gửi đến các đồng chí và gia đình lời chúc sức khoẻ, hạnh phúc, thành đạt trong năm 2005.
Xin cảm ơn và chúc sức khỏe tất cả các đồng chí!
Chú thích:
[1]. Đầu đề do Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đặt.
[2]. Bộ trưởng Bộ Tư pháp giai đoạn 2002 - 2007
[3]. Tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.