1. Giá trị nhân văn trong phương thức lập hiến
Đặc trưng, bản chất của một nền lập hiến biểu hiện trực tiếp và trước hết ở phương thức “làm Hiến pháp”. Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề này. Trước hết, Người yêu cầu việc soạn thảo và thông qua Hiến pháp phải do Quốc hội được nhân dân bầu ra, đại diện cho nguyện vọng và ý chí của nhân dân.
Bên cạnh đó, trong thực tiễn soạn thảo Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong việc ra đời Hiến pháp. Đó là việc thu thập ý kiến của nhân dân về dự thảo Hiến pháp được Hội đồng Chính phủ thảo luận. Ngày 10/11/1945, báo Cứu quốc đã đăng tải toàn văn dự thảo Hiến pháp kèm theo thông cáo: Muốn cho tất cả nhân dân Việt Nam dự vào việc lập hiến của nước nhà nên Chính phủ công bố bản dự thảo Hiến pháp này để mọi người đọc kỹ càng và được tự do bàn bạc, phê bình... Ủy ban Dự thảo Hiến pháp sẽ tập trung các đề nghị sửa đổi và ý kiến của nhân dân rồi trình toàn quốc dân đại hội thảo luận.
Khi soạn thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, nhưng không vì thế mà Người bỏ qua ý kiến của nhân dân. Người yêu cầu: “Sau khi thảo xong, chúng ta cần phải trưng cầu ý kiến nhân dân một cách rộng rãi. Có như thế bản Hiến pháp của chúng ta mới thật sự là một bản hiến pháp của nhân dân, của chế độ dân chủ” và đề nghị “toàn thể đồng bào, trước hết là đồng bào Hà Nội, tích cực tham gia công việc sửa đổi Hiến pháp”. Những ý kiến đóng góp của nhân dân được “Ban sửa đổi Hiến pháp nghiên cứu và thảo luận kỹ càng và trên cơ sở của việc nghiên cứu và thảo luận ấy, chúng tôi đã chỉnh lý lại bản dự thảo một lần nữa”. Người còn tóm tắt tất cả ý kiến đóng góp của nhân dân, chỉ rõ một cách cụ thể bản Hiến pháp đã chỉnh lý tiếp thu ở điểm gì; cái gì không tiếp thu thì cũng phải giải thích tại sao. Điều đó thể hiện Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc bảo đảm Hiến pháp phải thực sự của nhân dân.
Và theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân chính là người có quyền phúc quyết Hiến pháp khi Hiến pháp đó không còn phù hợp, không đáp ứng nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Bản Hiến pháp do đại biểu của nhân dân được nhân dân góp ý, được sự đồng thuận từ nhân dân là điều kiện đầu tiên để trở thành bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ và mang giá trị nhân văn sâu sắc.
2. Giá trị nhân văn trong nội dung lập hiến
2.1. Hiến pháp phải ghi nhận được những giá trị cơ bản nhất và những quyền cao quý nhất của con người
Đấu tranh vì quyền và tự do của con người là một trong những nội dung trọng yếu của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Ngay từ trong bức thư 8 điểm gửi các nước Đồng Minh thắng trận ở Hội nghị Véc-xây (Pháp) năm 1919 sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đòi quyền tự do dân chủ - quyền cơ bản nhất của con người cho nhân dân Việt Nam. “Chính cương vắn tắt” của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân quyền. Người chủ trương xây dựng nước Việt Nam mới, trong đó “Về phương diện xã hội:
a - Dân chúng được tự do tổ chức
b - Nam nữ bình quyền
c - Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”.
Tiếp đó, “Mười chính sách lớn” của Mặt trận Việt Minh, cũng có thể nói là của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đã thể hiện rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người. Trong mười chính sách, đáng chú ý có những chính sách thể hiện nổi bật và trực tiếp các quyền của con người, như: “Ban bố những quyền của dân: a) nhân quyền; b) tài quyền (quyền sở hữu); c) dân quyền (quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ, quyền tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại, quyền bình đẳng dân tộc, nam nữ” (chính sách thứ 5); “xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp, kiến thiết nền văn hóa mới” (chính sách thứ 9).
Trong hai bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban dự thảo đã ghi nhận các quyền con người, quyền công dân cơ bản sau:
Quyền bình đẳng: Tất cả mọi công dân Việt Nam đều được bình đẳng về mọi phương diện, bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng giữa các dân tộc, bình đẳng nam nữ. Nguyên tắc bình đẳng đã trở thành một nguyên tắc hiến định, được thể hiện trên mọi phương diện và trong các mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân trong cộng đồng, giữa cá nhân với cá nhân. Giá trị của nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc còn được nâng cao khi nó bổ sung chính sách ưu tiên giúp đỡ các dân tộc ít người: “Những quốc gia dân tộc thiểu số còn được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung”. Như vậy, Người không chỉ dừng lại ở việc ghi nhận những quyền đó, mà còn phát huy mặt tích cực của quyền đó, nhằm phục vụ cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Quyền tự do: Công dân Việt Nam có quyền tự do báo chí, hội họp, đi lại, thư tín, nhà ở… trong đó, tự do về thân thể là quyền cơ bản nhất trong các quyền con người đã được tuyên bố và bảo đảm trong điều luật: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”.
Quyền dân chủ: Cốt lõi quan niệm dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xác định mối quan hệ nhân dân với toàn bộ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị, trong đó nhân dân lao động là người làm chủ xã hội. Trong đó, chế định bầu cử là điểm khởi đầu và là nền tảng hình thành bộ máy nhà nước. Với quyền bầu cử, ứng cử, người dân chính là người chủ thực sự xây dựng Nhà nước mình. Nhà nước được nhân dân tín nhiệm giao phó trách nhiệm quản lý mọi mặt của đời sống xã hội thông qua người đại diện của mình. Nhưng đồng thời, người dân có quyền giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhân dân có quyền phủ quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.
Các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
- Quyền kinh tế: Đảm bảo quyền được làm việc, quyền tư hữu tài sản cho công dân Việt Nam, quyền lợi của những người lao động trí óc, lao động chân tay.
- Quyền văn hóa: Người dân có quyền được học tập, quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn học, nghệ thuật và tiến hành các hoạt động văn hoá khác, quyền tự do tín ngưỡng. Hiến pháp đã coi học tập vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Quy định này thể hiện quan điểm coi con người là vốn quý nhất, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Quyền xã hội: Những người già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động có quyền được giúp đỡ về vật chất. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng. Ở đây, từ truyền thống nhân ái của dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh “luật hóa” thành nghĩa vụ xã hội đối với công dân mà Nhà nước phải thực hiện trong đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Với những quy định này, quyền con người đã trở thành một nguyên tắc quan trọng của Hiến pháp. Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền con người luôn gắn liền với văn bản Hiến pháp. Hiến pháp trước hết phải là văn bản pháp lý thể hiện các quyền cơ bản của con người. Và quyền con người, quyền công dân phải thể chế hóa thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể, có tính phổ cập, tính xã hội hóa, không phân biệt “nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Phải thông qua Hiến pháp, pháp luật thì các giá trị của con người mới trở thành quyền năng, đòi hỏi Nhà nước phải có trách nhiệm để thực hiện trong thực tế. Đây thực sự là tư tưởng lập hiến tiến bộ và giàu tính nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Có một điều đáng lưu ý, các dân quyền (chính trị, tự do cá nhân, kinh tế - xã hội, văn hóa) trong hai bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, được thiết kế theo nguyên tắc nhân quyền. Chính dân quyền có nguồn cội từ nhân quyền nên đó là những quyền tự nhiên của con người. Nhà nước không tạo ra điều đó, không ban cho người dân những quyền này vì đó là quyền vốn có của con người. Tư duy lập hiến ở đây là Hiến pháp tôn trọng các quyền của con người. Đây là điều rất khác so với một số bản Hiến pháp sau này của Việt Nam, khi nói về quyền công dân thường có mô típ đầu như là Nhà nước quy định, Nhà nước ban hành, Nhà nước có chính sách… Bởi vậy, mới dẫn đến sự hiểu nhầm Nhà nước là chủ thể ban hành các quyền công dân, còn người dân chỉ ở vị thế được ban phát.
2.2. Nền lập hiến bảo đảm thực thi quyền con người
Không chỉ ghi nhận các quyền con người, quyền công dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của việc hiện thực hóa các giá trị cơ bản của quyền con người. Do đó, ngay từ những ngày đầu tiên giành lại nền độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”. Nội dung dân chủ của Hiến pháp thể hiện tập trung nhất ở việc xây dựng mô hình Nhà nước vững mạnh, của dân, do dân, vì dân.
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh vạch trần bản chất bóc lột, phản dân chủ của Nhà nước thực dân phong kiến và không chấp nhận sự tồn tại của hình thức Nhà nước này trong con đường cách mạng. Không thể nói đến giá trị nhân văn trong hình thức chính thể quân chủ khi mọi quyền hành đều tập trung trong tay một người theo nguyên tắc “cha truyền con nối”. Giá trị nhân văn chỉ có trong chính thể nhà nước mà ở đó, quyền lực thuộc về nhân dân. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng một chế độ nhà nước theo những phương châm thể hiện bản chất nhân dân của chế độ ta, thể hiện sự tôn kính nhân dân và ý thức phục vụ nhân dân. Đó chính là mô hình Nhà nước dân chủ nhân dân. Ở đây, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước cũng tức là chủ thể tối cao của quyền lập hiến. Thông qua quyền này, nhân dân giao quyền, ủy quyền quyền lực nhà nước của mình cho các cơ quan nhà nước. Nhưng điều này cũng không có nghĩa là đồng nhất quyền lực nhân dân với quyền lực nhà nước. Theo Điều 70 Hiến pháp năm 1946, việc sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo cách thức: Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu để sửa đổi Hiến pháp. Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi. Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải được đưa ra toàn dân phúc quyết. Như vậy, trong mối quan hệ giữa nhân dân và Nghị viện nhân dân thì quyền lực nhân dân cao hơn quyền lực Nghị viện và nhân dân là người quyết định cuối cùng về Hiến pháp của mình mà không một cơ quan nào có quyền đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, Nhà nước là công cụ để dân thực hành quyền dân chủ. Nhà nước là phục vụ dân mà không phải Nhà nước đứng trên dân. Tất cả các thành viên trong xã hội được tôn trọng, bình đẳng tham gia quyết định các vấn đề lớn của đất nước, tham gia công việc chung tùy theo “năng lực và phẩm hạnh”. Tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đã có quy định về việc thực hành dân chủ trong hoạt động tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước. Chẳng hạn, tư tưởng về tính công khai, minh bạch và thực hành dân chủ của các cơ quan công quyền và quyền tự do dân chủ của nhân dân: “Nghị viện họp công khai cho dân vào nghe”. Với các điều khoản này, xây dựng Nhà nước dân chủ thực sự đã trở thành một phương tiện hữu hiệu để đảm bảo và phát triển quyền con người, quyền công dân.
Để đảm bảo quyền lực của nhân dân, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý. Sức mạnh “thần linh pháp quyền” của Hiến pháp không phải chỉ đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trưởng ban khởi thảo Hiến pháp năm 1946 mới ra đời. Trong bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-xây vào đầu năm 1919 và sau này diễn ca với tựa đề Việt Nam yêu cầu ca, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Bảy xin Hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Đây chính là sức mạnh của Hiến pháp - sức mạnh của tính pháp quyền. Sức mạnh đó trước hết là sức mạnh của tổ chức quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp và tuân thủ Hiến pháp.
Trong một quốc gia độc lập, thì nguy cơ trực tiếp đối với quyền con người là sự thoái hóa, biến chất của hàng ngũ quan chức trong bộ máy nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức nguy cơ này và xem cuộc đấu tranh chống thoái hóa trong hệ thống chính trị, đề cao và thực hành tư tưởng pháp quyền trong xây dựng Hiến pháp, tổ chức Nhà nước là phương tiện hữu hiệu nhằm bảo đảm quyền con người. Trong tổ chức cơ cấu nhà nước, quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ, đều hoạt động theo quy định của pháp luật và có cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau. Vai trò độc lập xét xử của Toà án được bảo đảm bởi các toà được thiết kế không theo cấp hành chính và khi xét xử, thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp. Hiến pháp năm 1959 đã có quy định về trách nhiệm của tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước “đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”.
Trong lịch sử nền lập hiến Việt Nam, tư tưởng về một nền lập hiến vì con người được bắt đầu từ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng lập hiến giàu tính nhân văn ấy đã được thể hiện sâu sắc trong hai bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc do Người làm Trưởng ban dự thảo Hiến pháp và được kế thừa, phát triển trong các bản Hiến pháp về sau. Tư tưởng ấy thể hiện khát vọng hướng tới của một xã hội văn minh, tiến bộ mà trong đó, mỗi con người đều được trân trọng, được đảm bảo lợi ích chính đáng và được phát huy năng lực bản thân.
ThS. Lê Thị Hằng
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh