Pháp luật kinh tế
Sign In
Cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ viễn thông - Nhìn từ thực tiễn thi hành pháp luật

(19/05/2017)

Tóm tắt: Luật Viễn thông năm 2009 ra đời đã khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, kinh doanh viễn thông, triển khai cơ sở hạ tầng viễn thông băng rộng hiện đại với các công nghệ tiên tiến như 3G, 4G, ... đa dạng hóa dịch vụ viễn thông phù hợp xu thế hội nhập, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, xoá khoảng cách số giữa các vùng miền, đặc biệt đối với một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phù hợp với các chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng: Việc thực thi các quy định về cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ viễn thông vẫn bộc lộ những hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp và khách hàng. Bài viết đưa ra một vài đánh giá trong việc thực thi các quy định về cấp giấy phép kinh doanh dịch vụ viễn thông cũng như đi tìm những nguyên nhân của sự bất cập, hạn chế về vấn đề này. Abstracs: The 2009 Telecoms Law has encouraged organizations and individuals from all economic sectors to invest in and invest in telecommunications and to deploy modern broadband telecommunications infrastructure with advanced technologies. Such as 3G, 4G, ... diversify telecommunication services suitable integration trend, meet the needs of users and requirements of socio-economic development, contributing to ensure national defense And improving the quality of life of the people, eliminating the digital divide between regions, especially for a part of the people in remote, border and island areas in line with Party policies and Government. However, the reality is that the enforcement of regulations on licensing telecommunication services still reveals shortcomings and disadvantages that affect the interests of the business community and customers. groin. The article gives some assessments on the enforcement of regulations on EMC as well as on the causes of shortcomings in this regard.

Thực tiễn và yêu cầu hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay

(19/05/2017)

Mặc dù ở Việt Nam trước đây đã có nền móng cho sự phát triển loại hình doanh nghiệp xã hội cũng như ưu điểm của nó đối với nền kinh tế - xã hội, cụ thể là đã từng có rất nhiều tổ chức sử dụng kinh doanh như một công cụ để đóng góp cho cộng đồng, đặc biệt là cho nhóm người yếu thế. Một nghiên cứu năm 2011 do Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) - Hội đồng Anh phối hợp cùng với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã cho thấy, ở Việt Nam có đến gần 200 tổ chức có đầy đủ đặc điểm để trở thành một doanh nghiệp xã hội, trong số đó, được hình thành sớm nhất là Hợp tác xã Nhân đạo thuộc Hội người khuyết tật Hà Nội, thành lập năm 1973. Tuy nhiên, cho đến Luật Doanh nghiệp năm 2014, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp và Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày 17/5/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội, thì doanh nghiệp xã hội mới được pháp luật ghi nhận và nhận diện một cách khá đầy đủ.

Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế - Những thách thức đối với Chính phủ Việt Nam

(19/04/2017)

Tóm tắt: Cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (ISDS) đã được ghi nhận trong pháp luật đầu tư và các hiệp định về đầu tư quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia. Bài viết đề cập và nhận diện các yếu tố trong tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và Chính phủ Việt Nam, các thách thức pháp lý và thực tế mà Chính phủ phải đối mặt trong các vụ kiên đầu tư quốc tế. Abstract: The mechanism for dealing with the Investor State Dispute Settlement (ISDS) has recognized in investment law and in the international investment agreements that Vietnam has signed and adhered to. This article mentions and identifies the components in the disputes between foreign investors and Vietnamese Government, legal and practical challenges the Government have to face as well.

Hoàn thiện pháp luật về bán và thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính

(19/04/2017)

Tóm tắt: Hầu hết các tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động thương mại đều có sẵn những tài sản cố định, nhưng họ luôn gặp phải khó khăn về huy động vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Từ đó, trên thế giới đã xuất hiện loại hình bán và thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính thay thế cho phương thức vay vốn từ ngân hàng đã rất phát triển. Ở Việt Nam, phương thức này vẫn chưa phát triển, trong đó có nguyên nhân về mặt pháp luật. Bài viết sẽ tập trung phân tích đặc điểm pháp lý, thực trạng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bán và thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính. Abstract: Most of the organizations and individuals involved in commercial activities have fixed assets available, but they must always face difficulties in mobilizing capital for their production and business activities. In the circumstance of these difficulties, sale and sublease appear under form of financial leasing in order to replace the means of capital mobilization from banks. In Vietnam, sale and subblease transaction under the form of financial leasing has not yet developed because of many reasons including legal reason. This article will analysis legal characteristics, current situation of law and some solutions for improving law on sale and sublease under the form of financial leasing.

Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do thành lập tổ chức đại diện của người lao động

(23/03/2017)

Tóm tắt: Bài viết phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quyền tự do thành lập công đoàn, qua đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật cho phù hợp với xu thế quốc tế và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức đại diện cho người lao động. Abstract: The paper analyzes, assesses the status of the law on freedom of establishment of trade unions, through which the author gives some recommendations for amendments of some provisions of the law in line with the international trend and improving the efficiency of the activities of representative organizations of worker.

Hợp đồng lập hội

(23/03/2017)

Tóm tắt: Trong khoa học pháp lý, hợp đồng lập hội luôn được xem là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc lập hội, tuy nhiên, hiện nay, Bộ luật Dân sự vẫn đang bỏ ngỏ vấn đề này. Để cụ thể hóa các nguyên tắc hiến định về quyền tự do lập hội và quyền tự do kinh doanh được ghi nhận trong Điều 25, Điều 33 Hiến pháp năm 2013 và làm nền tảng pháp lý cho các luật chuyên ngành, Bộ luật Dân sự cần được nghiên cứu để bổ sung các quy định về hợp đồng lập hội. Abstract: In the legal science, the contract of association is always considered as a theoretical basis and the practice of association but now, the Civil Code still overlooks this problem. Therefore, in order to concretize the constitutional principles about the right of freedom of association and the right of freedom of business, which are recognized in the Article 25, Article 33 of Constitution of 2013 and to make the legal basis for specialized laws, there is a need to research the contract of association to add this regulations about contract of association in the Civil Code.

Đề phòng rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp nhập khẩu trong thủ tục kiểm tra sau thông quan

(27/02/2017)

Xuất nhập khẩu hàng hóa là một trong những hoạt động quan trọng diễn ra với tần suất lớn trong các giao dịch của một số doanh nghiệp hiện nay. Xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu trong những năm qua đã khiến việc mua bán hàng hóa quốc tế trở thành một hoạt động ngày càng thường xuyên của doanh nghiệp. Nguyên tắc tiến hành thủ tục hải quan nhập khẩu vào Việt Nam là được thực hiện công khai, nhanh chóng, thuận tiện, đảm bảo kịp thời đáp ứng nhu cầu của việc nhập khẩu. Theo khoản 3 Điều 77 Luật Hải quan thời hạn kiểm tra sau thông quan là 05 năm kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan. Do đó, kết thúc thủ tục hải quan không có nghĩa là doanh nghiệp đã hết trách nhiệm pháp lý nói chung, nghĩa vụ thuế nói riêng liên quan đến hàng hóa nhập khẩu.

Một số bất cập của Luật Bảo vệ môi trường về kiểm soát ô nhiễm không khí ở Việt Nam

(22/02/2017)

Tóm tắt: Trên cơ sở những sửa đổi của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ môi trường, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014. Tuy nhiên, sau hơn một năm thực hiện, các quy định trong Luật này đã bộc lộ nhiều hạn chế ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí, đặc biệt là quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân được Hiến pháp ghi nhận. Bài viết này sẽ phân tích và làm sáng tỏ những thiếu sót, bất cập, hạn chế trong Luật Bảo vệ môi trường hiện hành về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Abstract: Based on the amendments of the Constitution of 2013 with respect to environmental protection, the National Assembly - XIII. Session - enacted Environment Protection Law in 2014. After over one year of implementation, however, regulations of this Law have revealed many shortcomings, which have not good impact on air pollution control, especially on the right to life in the healthy environment of the people recognized by the Constitution. This article analyzes and clarifies the shortcomings, inadequacies and limitations of existing Environment Protection Law of 2014 with respect to air pollution control.

Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam

(22/02/2017)

Tóm tắt: Doanh nghiệp xã hội là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện ở Việt Nam và trong thời gian gần đây thì doanh nghiệp xã hội đang nhận được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách, cũng như các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý. Hiện nay, địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội được quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị định số 96/2015/NĐ-CP, nhìn chung hành lang pháp lý về doanh nghiệp xã hội ở nước ta còn rất sơ khai và cần được tiếp tục hoàn thiện. Bài viết của tác giả cung cấp một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam để góp phần mô tả rõ nét bản chất của doanh nghiệp xã hội nhằm xây dựng các chính sách điều chỉnh phù hợp và nâng cao nhận thức chung về doanh nghiệp xã hội. Abstract: Social enterprises is a new legal term in Vietnam and they are drawing considerable attention from the policy makers and legal researchers. Currently, the legal status of social enterprises is defined in Article 10 of the Law on Enterprises in 2014 and Decree No. 96/2015/ND-CP, the legal framework of social enterprises in Viet Nam is still very nascent and requires further improvement. This article provides some theoretical issues of social enterprises under Vietnam law to help illustrating the nature of social enterprises to tailored policy and raises public awareness of social enterprises.