Tóm tắt: Bài viết này đề cập một số nội dung của Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật, từ đó, tác giả chỉ ra một số bất cập từ thực tiễn áp dụng và những kiến nghị hoàn thiện.
Abstract: The article deals with some contents of the Decree No. 77/2008/ND-CP dated 16th July 2008 of the Government on legal consultancy, and from there, points out some insufficiencies in the implementation practice and completion proposals.
1. Đặt vấn đề
Cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường, nhu cầu phát triển hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật thực sự là một nhu cầu khách quan và ngày càng cần thiết.
Hoạt động tư vấn pháp luật của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong thời gian qua đóng góp một phần không nhỏ trong việc giúp đỡ pháp lý cho cá nhân và tổ chức trong việc nắm vững và chấp hành pháp luật. Nhìn chung, hoạt động tư vấn pháp luật này mang ý nghĩa chính trị, chứ không phải là một nghề dịch vụ chuyên nghiệp.
Có thể nói, Pháp lệnh Tổ chức luật sư ngày 18/12/1987 là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động luật sư. Theo quy định của Pháp lệnh này, luật sư ngoài chức năng tham gia tố tụng còn làm tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Nhưng trên thực tế, các luật sư mới tập trung vào công tác tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong các vụ án, do yêu cầu xã hội lúc bấy giờ đã xuất hiện những người chuyên làm dịch vụ pháp lý ở những thành phố lớn. Hoạt động dịch vụ pháp lý này mang tính tự phát chưa được pháp luật quy định và không có sự quản lý của Nhà nước. Trước tình hình đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 1119/QLTPK ngày 24/12/1987 về công tác dịch vụ pháp lý và tiếp theo là Công văn số 870/CV ngày 26/10/1989 hướng dẫn thêm về công tác này nhằm kịp thời đưa hoạt động dịch vụ pháp lý vào nề nếp, có sự quản lý của Nhà nước.
Đa số ý kiến cho rằng vấn đề tư vấn pháp luật của tổ chức xã hội cần được nghiên cứu và quy định bằng một văn bản riêng với hình thức là nghị định của Chính phủ, trong đó, cần xác định rõ tổ chức xã hội nào được mở Trung tâm Tư vấn pháp luật, phạm vi hoạt động của Trung tâm Tư vấn pháp luật, tiêu chuẩn của những người được thực hiện tư vấn pháp luật và đối tượng được tư vấn pháp luật...
Ngày 11/6/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2003/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật đã tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển, mở rộng loại hình tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, bảo đảm sự quản lý thống nhất, có hiệu quả của Nhà nước đối với lĩnh vực hoạt động này.
Ngày 16/7/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật thay thế Nghị định số 65/2003/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật (Nghị định số 77/2008/NĐ-CP). Bên cạnh những kết quả đạt được, sau gần 10 năm thực hiện, Nghị định số 77/2008/NĐ-CP đã bộc lộ một số bất cập cần sửa đổi, bổ sung.
2. Một số nội dung của Nghị định số 77/2008/NĐ-CP của Chính phủ về tư vấn pháp luật
2.1. Về tính chất hoạt động tư vấn pháp luật
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP thì “hoạt động tư vấn pháp luật quy định tại Nghị định này mang tính chất xã hội, không nhằm mục đích thu lợi nhuận”.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật thì “ngoài hoạt động tư vấn pháp luật miễn phí cho các đối tượng quy định tại Điều 10 của Nghị định này, Trung tâm Tư vấn pháp luật được thu thù lao đối với cá nhân, tổ chức khác có yêu cầu tư vấn pháp luật để bù đắp chi phí cho hoạt động của Trung tâm”. Như vậy, quy định tại Điều 11 đã rộng hơn phạm vi và tính chất của hoạt động tư vấn pháp luật quy định tại Điều 1 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP.
Điều 10 Nghị định số 77/2018/NĐ-CP quy định: “Trung tâm tư vấn pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí cho thành viên, hội viên, đoàn viên của tổ chức chủ quản. Nhà nước khuyến khích Trung tâm Tư vấn pháp luật thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí cho người nghèo và các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật”. Theo quy định này thì đối tượng được thụ hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí là quá rộng và không khả thi.
Đối với các Trung tâm Tư vấn pháp luật của Hội Luật gia các cấp, Liên đoàn Luật sư và các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật thì đối tượng tư vấn miễn phí chỉ có thể là người nghèo và đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật, còn thành viên, hội viên của tổ chức chủ quản này có cần tư vấn pháp luật không khi bản thân họ là luật gia, luật sư, giảng viên, nghiên cứu viên luật. Còn đối với Trung tâm Tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội khác như Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên… thì đối tượng được tư vấn miễn phí lại rất rộng, trong khi đó các Trung tâm Tư vấn pháp luật của các tổ chức này được thành lập với số lượng còn hạn chế. Thực tế cho thấy, nếu không có sự hỗ trợ từ cơ quan chủ quản, nguồn tài trợ từ các dự án quốc tế thì các Trung tâm Tư vấn pháp luật khó đáp ứng yêu cầu của đối tượng được tư vấn pháp luật miễn phí.
Nghị định số 77/2008/NĐ-CP chưa quy định rõ tính chất của hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội vì vừa thực hiện tư vấn pháp luật miễn phí, vừa có thu phí. Vì vậy, tác giả cho rằng, cần nhận diện lại về tính chất hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội. Có xác định đúng mục đích của hoạt động tư vấn pháp luật mang tính xã hội thì mới xây dựng được mô hình tổ chức phù hợp và đưa nó vào hoạt động có hiệu quả.
Thực tiễn cho thấy, nguồn kinh phí bảo đảm cho các Trung tâm Tư vấn pháp luật hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn kinh phí được trích từ kinh phí ngân sách nhà nước cấp cho hoạt động hàng năm của tổ chức chủ quản hoặc được tài trợ từ các dự án hợp tác với các tổ chức quốc tế. Nếu không có các nguồn kinh phí này thì các Trung tâm Tư vấn pháp luật không thể bảo đảm cho hoạt động tư vấn pháp luật miễn phí. Kinh phí thu được từ việc cung cấp dịch vụ cho cá nhân, tổ chức có yêu cầu là rất ít. Chỉ có một số Trung tâm Tư vấn pháp luật có nguồn thu từ việc cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật có thu phí, nhưng rất ít Trung tâm Tư vấn pháp luật bảo đảm hoạt động được từ nguồn thu phí tư vấn pháp luật.
Việc cung cấp dịch vụ pháp lý của các tổ chức xã hội khác với dịch vụ pháp lý của luật sư mang tính kinh doanh và khác với dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước. Tính xã hội của hoạt động này thể hiện ở mục đích không kinh doanh, không vì lợi nhuận, lấy thu bù chi, tự hạch toán. Mức phí có quy định và ở mức vừa phải, phù hợp và không giống mức phí của luật sư là phí thỏa thuận, trừ trường hợp cung cấp dịch vụ pháp lý trong các vụ án hình sự theo quy định của Chính phủ.
Về tính chất hoạt động, nên xác định đây là hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý mang tính xã hội, do các tổ chức xã hội đứng ra thành lập theo nguyên tắc tự hạch toán, lấy thu bù chi, không vì lợi nhuận, mục đích không phải là kinh doanh. Đối với các thành viên của tổ chức chủ quản thì tùy theo khả năng của mình, Trung tâm Tư vấn pháp luật có thể cung cấp dịch vụ miễn phí hoặc giảm phí.
Theo tác giả, việc thành lập các Trung tâm Tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội là để cá nhân, tổ chức có thêm sự lựa chọn cho mình hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý. Người có tiền có thể tìm đến dịch vụ pháp lý của luật sư, người thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý có thể tìm đến Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà nước, còn người không thuộc hai đối tượng trên có thể tìm đến sự giúp đỡ pháp lý từ Trung tâm Tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội.
2.2. Về phạm vi hoạt động
Phạm vi hoạt động của Trung tâm Tư vấn pháp luật được quy định tại Điều 7 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP:
“1. Trung tâm Tư vấn pháp luật được thực hiện tư vấn pháp luật; được cử luật sư làm việc theo hợp đồng cho Trung tâm tham gia tố tụng để bào chữa, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu tư vấn pháp luật đối với vụ việc mà Trung tâm thực hiện tư vấn pháp luật; được thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
2. Trung tâm tư vấn pháp luật được nhận và thực hiện vụ việc trong tất cả các lĩnh vực pháp luật”.
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP thì tổ chức chủ quản được thành lập để thực hiện tư vấn pháp luật cho thành viên, hội viên, đoàn viên của tổ chức mình và cá nhân, tổ chức khác. Tương tự như vậy, Điều 10 và 11 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP chỉ quy định về tư vấn pháp luật.
Một vấn đề được đặt ra là Trung tâm Tư vấn pháp luật chỉ cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật hay cả dịch vụ tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng?
Theo quy định của Điều 7 thì Trung tâm Tư vấn pháp luật được cung cấp các dịch vụ pháp lý bao gồm: (i) Tư vấn pháp luật; (ii) Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhân, tổ chức; (iii) Đại diện. Tuy nhiên, trong Điều 7 không quy định rõ “đại diện” trong tố tụng hay đại diện ngoài tố tụng. Với quy định tại Điều 7 thì phạm vi hoạt động của Trung tâm Tư vấn pháp luật đã rộng hơn so với tên gọi của Trung tâm và tên gọi của Nghị định.
Thực tế cho thấy, một số Trung tâm Tư vấn pháp luật ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không chỉ thực hiện tư vấn pháp luật, cử luật sư tham gia tố tụng để bào chữa, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP, mà còn thực hiện một số nhiệm vụ được tổ chức chủ quản giao ngoài phạm vi tư vấn pháp luật như đại diện ngoài tố tụng, cử cả tư vấn viên pháp luật làm đại diện theo quy định của pháp luật để tham gia tố tụng dân sự, lao động.
Một câu hỏi được đặt ra là, Trung tâm Tư vấn pháp luật có được cung cấp dịch vụ tham gia tố tụng cho thành viên, hội viên của tổ chức chủ quản không? Nếu có thì có thu phí không?
Với quy định tại Điều 10 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP thì có thể hiểu, Trung tâm Tư vấn pháp luật chỉ có thể cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí cho thành viên, hội viên của tổ chức chủ quản. Còn theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP thì có hai cách hiểu: (i) Trung tâm Tư vấn pháp luật có thể cung cấp dịch vụ tham gia tố tụng cho cá nhân, tổ chức có yêu cầu không phải là thành viên, hội viên của cơ quan chủ quản; (ii) Trung tâm Tư vấn pháp luật có thể cung cấp dịch vụ tham gia tố tụng cho cá nhân, tổ chức có yêu cầu, trong đó, bao gồm cả thành viên, hội viên của tổ chức chủ quản và trong trường hợp này, hội viên của tổ chức chủ quản phải trả thù lao.
Về vấn đề này, có thể tham khảo quy định tại Điểm 3 Thông tư số 04/2003/TT-BTP ngày 28/10/2003 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 65/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật:
“Trung tâm Tư vấn pháp luật không được cử tư vấn viên pháp luật thực hiện việc bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, các đương sự khác trước các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong trường hợp tổ chức chủ quản cử tư vấn viên pháp luật của Trung tâm Tư vấn pháp luật thực hiện việc bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thành viên của tổ chức mình hoặc các đối tượng khác theo quy định của pháp luật tố tụng, thì tư vấn viên pháp luật đó không được lấy danh nghĩa là tư vấn viên pháp luật của Trung tâm Tư vấn pháp luật”.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình (Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015); bị hại, đương sự nhờ bào chữa viên nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình (Điều 84 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Chế định bào chữa viên nhân dân đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và tiếp tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuy nhiên, cho đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn về chế định này. Vì vậy, vấn đề đặt ra là, có cần nghiên cứu chế định bào chữa viên nhân dân khi tiến hành việc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 77/2008/NĐ-CP không?
2.3. Về tổ chức chủ quản
Điều 1 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật quy định: “Nghị định này quy định về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật (sau đây gọi chung là tổ chức chủ quản)”. So với Nghị định số 65/2003/NĐ-CP về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật, thì tổ chức chủ quản được mở rộng, cho phép các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật được thành lập Trung tâm Tư vấn pháp luật.
Vấn đề đặt ra là, tại sao cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật được thành lập Trung tâm Tư vấn pháp luật? Tư vấn viên pháp luật có phải là chức danh của viên chức nhà nước không? Viên chức của các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu luật này có được kiêm nhiệm chức danh tư vấn viên pháp luật không? Có vi phạm Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010 không? Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) không cho phép cán bộ, công chức, viên chức kiêm nhiệm luật sư, nếu viên chức kiêm nhiệm tư vấn viên pháp luật có vi phạm nguyên tắc bất khả kiêm nhiệm không?
Theo tác giả, nên cho phép Chi hội Luật gia của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu chuyên ngành luật được thành lập Trung tâm Tư vấn pháp luật. Theo Thông tư số 1119/QLTPK ngày 24/12/1987 về công tác dịch vụ pháp lý và Công văn 870/CV ngày 26/10/1989 của Bộ Tư pháp thì chỉ có Đoàn Luật sư và Hội Luật gia các cấp được mở Văn phòng Dịch vụ pháp lý. Các cơ quan, tổ chức nhà nước không được mở Văn phòng Dịch vụ pháp lý.
2.4. Về luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động
Điều 5 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP quy định về điều kiện thành lập Trung tâm Tư vấn pháp luật như sau: “Có ít nhất hai tư vấn viên pháp luật và một luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hai luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động” và Điều 18 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP quy định về người thực hiện tư vấn pháp luật người thực hiện tư vấn pháp luật bao gồm: (i) Tư vấn viên pháp luật; (ii) Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho Trung tâm Tư vấn pháp luật; (iii) Cộng tác viên tư vấn pháp luật.
Theo khoản 1 Điều 49 Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) thì Trung tâm Tư vấn pháp luật không phải là tổ chức hành nghề luật sư. Theo khoản 3 Điều 49 thì luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động.
Ở đây cần phải hiểu quy định của Điều 49 Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012) là luật sư hành nghề với tư cách cá nhân ký hợp đồng lao động với cơ quan, tổ chức để thực hiện dịch vụ pháp lý cho chính cơ quan, tổ chức đó với tư cách là luật sư “nội bộ”, người làm thuê cho cơ quan, tổ chức đó. Ví dụ, luật sư ký hợp đồng lao động với một doanh nghiệp thì luật sư chỉ cung cấp dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp đó mà không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho bên thứ ba. Còn luật sư ký hợp đồng lao động với Trung tâm Tư vấn pháp luật là để cung cấp dịch vụ pháp lý cho bên thứ ba. Vì vậy, không thể cho rằng, luật sư ký hợp đồng lao động với Trung tâm Tư vấn pháp luật là luật sư hành nghề với tư cách cá nhân.
Thực tiễn cho thấy, có một số luật sư tham gia vào Trung tâm Tư vấn pháp luật là những luật sư đang hành nghề tại một văn phòng luật sư hoặc một công ty luật. Điều này vi phạm quy định tại Điều 23 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) là luật sư chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề là tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân.
Ở đây, có thể tham khảo quy định tại Điều 14 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, cụ thể là Trung tâm Trợ giúp pháp lý ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với luật sư nếu được sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đang làm việc hoặc cơ quan, tổ chức mà luật sư ký kết hợp đồng lao động.
3. Kiến nghị
3.1. Về tên của Nghị định về tư vấn pháp luật, Trung tâm Tư vấn pháp luật và tư vấn viên pháp luật
Về tên của Nghị định, tác giả kiến nghị nên sửa từ Nghị định tư vấn pháp luật sang dịch vụ pháp lý để mở rộng phạm vi hoạt động, cụ thể là “Nghị định của Chính phủ về dịch vụ pháp lý”.
Bên cạnh đó, tên của “Trung tâm Tư vấn pháp luật” nên sửa thành “Văn phòng Dịch vụ pháp lý” và “tư vấn viên pháp luật” thành “chuyên viên dịch vụ pháp lý” cho phù hợp với tính chất, phạm vi hoạt động và tên của Nghị định.
3.2. Về tính chất hoạt động
Nên xác định hoạt động dịch vụ pháp lý mang tính xã hội trên nguyên tắc tự hạch toán, lấy thu bù chi. Việc thực hiện dịch vụ pháp lý miễn phí cần căn cứ vào khả năng và nguồn lực của Văn phòng Dịch vụ pháp lý hoặc khi có sự tài trợ. Không nên đặt vấn đề đây là nghĩa vụ của Văn phòng Dịch vụ pháp lý là thực hiện dịch vụ pháp lý miễn phí.
3.3. Về phạm vi hoạt động
Mở rộng phạm vi hoạt động của Văn phòng Dịch vụ pháp lý, cụ thể là Văn phòng Dịch vụ pháp lý cung cấp các dịch vụ sau: (i) Tham gia tố tụng; (ii) Tư vấn pháp luật; (iii) Đại diện ngoài tố tụng. Tuy nhiên, cần quy định rõ hoạt động tham gia tố tụng như: Ai có quyền tham gia tố tụng? tham gia tố tụng với tư cách gì? Thủ tục phân công, cử người tham gia tố tụng như thế nào?
Theo tác giả, chuyên viên dịch vụ pháp lý được tham gia tố tụng hình sự với tư cách là bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội, bảo vệ cho bị hại, đương sự là thành viên của tổ chức xã hội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tổ chức xã hội phân công Văn phòng Dịch vụ pháp lý cử chuyên viên dịch vụ pháp lý, bào chữa viên nhân dân (tương tự như Đoàn Luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa). Điều này cũng phù hợp với quy định tại điểm c khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình”.
3.4. Về tổ chức chủ quản
Tác giả đề xuất nên bỏ quy định cơ quan chủ quản là các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật và thay vào đó quy định: Chi hội Luật gia của các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật được thành lập Văn phòng Dịch vụ pháp lý.
3.5. Về luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động
Đây là vấn đề có thể có nhiều cách hiểu khác nhau, vì vậy, đề nghị Bộ Tư pháp có hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên, không nên quy định luật sư ký hợp đồng lao động với Văn phòng Dịch vụ pháp lý vì không thực tế, thay vào đó, quy định Văn phòng Dịch vụ pháp lý ký với luật sư hợp đồng thực hiện dịch vụ pháp lý nếu thấy cần thiết.
TS. Nguyễn Văn Tuân
Hội Luật gia Việt Nam