Xây dựng pháp luật
Sign In
Luật bàn về các biện pháp phòng ngừa hành chính

(31/10/2016)

Bài viết tác giả luận bàn về tính chất của các biện pháp phòng ngừa hành chính, liệt kê các biện pháp phòng ngừa hành chính, vai trò của các biện pháp phòng ngừa hành chính. Tác giả cho rằng, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, vai trò của biện pháp phòng ngừa hành chính lại càng được thể hiện rõ nét hơn. Do đó, nhu cầu điều chỉnh, áp dụng tăng lên của các biện pháp này là lẽ đương nhiên. Nhưng cần phải có một giới hạn rõ ràng, cụ thể để áp dụng nhóm biện pháp này trong thực tiễn, tránh tình trạng lạm quyền lộng quyền của nhà chức trách, đồng thời bảo vệ được quyền công dân, quyền con người, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Ba năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư - Kết quả, hạn chế và kiến nghị

(31/10/2016)

Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012 là một đạo luật quan trọng, liên quan đến tổ chức và hoạt động luật sư, Luật này đã thực sự đi vào cuộc sống và mang lại nhiều kết quả. Về cơ bản, các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư là đúng hướng và đa phần vẫn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, có nhiều quy định tiếp cận với thông lệ hành nghề luật sư quốc tế, tập trung sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư nhằm tháo gỡ nhưng khó khăn, vướng mắc trong tổ chức và hoạt động luật sư, góp phần nâng cao chất lượng luật sư, chất lượng hành nghề luật sư, tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư hành nghề và bổ sung một số quy định nhằm phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trước những yêu cầu mới của cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, bảo đảm cho hoạt động luật sư tiếp tục phát triển ổn định và bền vững. Trong bài viết này, tác giả nêu lên một số kết quả đạt được sau ba năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012, phân tích những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại này và từ đó, đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm triển khai thi hành hiệu quả Luật và hoàn thiện hơn nữa thể chế về luật sư và hành nghề luật sư trong thời gian tới.

Tăng cường quản lý nhà nước đối với đội ngũ chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam

(31/10/2016)

Trong hoạt động quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, thi hành án dân sự là lĩnh vực được xây dựng, hoàn thiện và tăng cường theo xu thế chung của thế giới về quản lý nhà nước đa ngành và liên ngành. Trong đó, chấp hành viên được coi là trung tâm, là người trực tiếp tổ chức thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, làm cho nó được thi hành trên thực tế, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy, đội ngũ chấp hành viên ngày càng được củng cố và tăng cường về số lượng, chú trọng về chất lượng, đó là không ngừng giáo dục về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Để hoạt động thi hành án dân sự theo tinh thần cải cách tư pháp ngày càng hoàn thiện, phát huy được đúng vai trò, vị trí của hoạt động thi hành án dân sự trong đời sống xã hội, đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động thi hành án dân sự, trong đó việc xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự là một yêu cầu khách quan, có ý nghĩa quyết định trong thi hành án dân sự. Bài viết này tập trung phân tích những đặc thù của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với đội ngũ chấp hành viên trong thi hành án dân sự giai đoạn 2011- 2016 và đưa ra một số giải pháp tăng cường quản lý đối với đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự, góp phần bảo đảm cho hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Một số ý kiến hoàn thiện chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay

(31/10/2016)

Theo Điều 20 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 thì người thực hiện trợ giúp pháp lý là trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý. Quy định này đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý. Tiếp theo đó, các văn bản dưới luật đã quy định khá đồng bộ về điều kiện, tiêu chuẩn, hình thức tham gia trợ giúp pháp lý cũng như quy định về quyền, nghĩa vụ, hoạt động và các vấn đề liên quan về người thực hiện trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, qua một thời gian triển khai trên thực tiễn, bên cạnh những kết quả đạt được, chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Bài viết đã chỉ ra những điểm còn hạn chế về chế định người thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra những đóng góp để khắc phục những hạn chế nhằm hoàn thiện chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay.

Một nền tài chính công minh bạch và hiểu quả theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015

(31/10/2016)

Ngân sách nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội. Để điều chỉnh lĩnh vực này, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, liên tục được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện, tình hình chung của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 (thay thế Luật Ngân sách nhà nước năm 2002) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 25/6/2015, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2017. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 ra đời phù hợp với các quy định mới của Hiến pháp năm 2013, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thống nhất với các luật hiện hành và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những nguyên tắc của Luật là xây dựng một nền tài chính công minh bạch và hiệu quả.

Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản ở một số quốc gia trên thế giới và bài học cho Việt Nam

(28/10/2016)

Cũng như phần lớn pháp luật về thanh lý tài sản phá sản của các nước trên thế giới, các quy định tương ứng của pháp luật Việt Nam cũng điều chỉnh gồm các nội dung cơ bản: (i) Tài sản phá sản và quản lý tài sản phá sản; (ii) Nội dung và chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản; (iii) Thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản. Tuy nhiên, việc xây dựng mô hình pháp luật về thanh lý tài sản phá sản cũng cần lưu ý mối liên hệ nội tại với các chế định khác trong pháp luật phá sản như: (i) Điều kiện mở thủ tục phá sản; (ii) Trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản; (iii) Thẩm quyền của cơ quan tố tụng; (iv) Hoà giải và tái tổ chức doanh nghiệp mắc nợ; (v) Biện pháp chế tài trong lĩnh vực phá sản.... và các bộ phận khác trong hệ thống pháp luật của quốc gia đó cũng như tính ảnh hưởng bởi những tác động khách quan của truyền thống pháp luật chung. Ví dụ như cấu trúc của đạo luật, sự quan niệm và đánh giá về các hiện tượng phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản cũng như các giải thích pháp luật, các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật nội bộ, sự ghi nhận về giá trị các nguồn pháp luật, phạm vi và kỹ thuật điều chỉnh của các quy phạm pháp luật đối với các vấn đề có liên quan... Mặt khác cũng phải thấy là việc so sánh Luật Phá sản của Việt Nam với Luật Phá sản của các nước không phải bao giờ cũng nhằm mục đích và khó có thể dựng nên một bức tranh toàn cảnh và chi tiết với tất cả những sự so sánh giữa các mô hình pháp lý này. Điều này có những lý do khách quan và chủ quan của nó. Ví dụ cũng như nhiều bộ phận pháp luật (hay chế định pháp luật khác) trong lĩnh vực dân sự, thương mại... mảng chế định pháp luật về phá sản luôn chịu sự tác động nhất định bởi những thay đổi từ sự vận động phát triển của đời sống kinh tế cũng như trong cơ chế vận hành nền kinh tế ở từng quốc gia. Bởi vậy, việc so sánh cần phải tính tới đặc thù này và đồng thời cần hướng tới những nội dung mang tính điển hình và phổ biến và qua đó có thể góp phần xây dựng các luận cứ hoàn thiện pháp luật về thanh lý tài sản ở Việt Nam hiện nay. Bài viết này có mục đích làm rõ kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về trình tự, thủ tục thanh lý tài sản của một số quốc gia trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam.

Sửa đổi, bổ sung khái niệm và chủ thể của tham nhũng góp phần hoàn thiện các quy định về phát triển và xử lý tham nhũng hiện hành

(26/10/2016)

Theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2006 thì “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Như vậy, theo quy định hiện hành, tham nhũng luôn luôn gắn với quyền lực và lợi ích cá nhân. Qua nghiên cứu về tham nhũng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cho thấy, tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước và các quyền lực công khác. Tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau. Khi Nhà nước và quyền lực chính trị còn tồn tại thì còn có điều kiện để xảy ra tham nhũng.

Hoàn thiện các quy định pháp luật về tiêu chuẩn chức danh quản lý của công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay

(26/10/2016)

Theo quan niệm chung ở Việt Nam hiện nay, chức danh quản lý của công chức thông thường chỉ được tính từ cấp phòng (và tương đương) thuộc cấp huyện (và tương đương) trở lên. Còn tiêu chuẩn của công chức chính là các quy định, chuẩn mực đặt ra của cấp có thẩm quyền đối với từng vị trí công tác khác nhau, làm cơ sở để quản lý tốt đội ngũ công chức. Trong hoạt động thực tiễn, các cơ quan hành chính nhà nước đều căn cứ vào tiêu chuẩn để thực hiện việc tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng… công chức. Ở một mức độ nhất định, có thể coi tiêu chuẩn công chức là nền móng để tạo nên và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức . Trước hết, đây là một trong các tiêu chí đo lường chất lượng đội ngũ công chức; mặt khác, đó còn là nhân tố tạo nên hiệu quả của tiến trình cải cách công vụ, công chức . Trên cơ sở xây dựng các chức danh, tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, từng cơ quan nhà nước sẽ rà soát lại đội ngũ công chức, đối chiếu với tiêu chuẩn để bố trí cho phù hợp.

Hoàn thiện quy định pháp luật về “Trợ giúp pháp lý tố tụng”

(30/09/2016)

Trong hoạt động trợ giúp pháp lý (gọi tắt là TGPL) bằng hình thức tham gia tố tụng[1], thì hoạt động TGPL tiền tố tụng (gọi tắt là TGPLTTT) đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định chất lượng, hiệu quả quá trình tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL trong việc bào chữa, bảo vệ cho các đối tượng được TGPL[2] là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị bắt, người bị tạm giữ (gọi tắt là người bị tình nghi); góp phần đảm bảo các quyền con người, hạn chế tình trạng mớm cung, ép cung, dùng nhục hình; tạo nên phiên tòa xét xử công bằng, khách quan, đúng người, đúng tội và kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng được TGPL. Mặc dù, TGPLTTT có vai trò, ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng được TGPL tại các cơ quan tiến hành tố tụng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động tố tụng; song, hiện nay trong hệ thống pháp luật về TGPL và tố tụng chưa quy định về TGPLTTT hoặc quy định nhưng không cụ thể, rõ ràng. Trước yêu cầu cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con người, quyền công dân, quyền tư pháp được nghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và quyền tiếp cận TGPL trong tư pháp hình sự theo Hướng dẫn của Liên Hợp quốc ngày 20/12/2014 mà Việt Nam là nước thành viên thì việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện quy định về TGPLTTT là hết sức cần thiết. Trong phạm vi bài viết này, người viết xin nêu ra sự cần thiết phải hoàn thiện quy định TGPLTTT theo pháp luật về TGPL, tố tụng hình sự và từ đó đề xuất một số kiến nghị.

Những vướng mắc quy định hiệu lực về thời gian trong Bộ luật Hình sự năm 2015

(30/09/2016)

Ngày 27/12/2015, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 109), theo đó, nhiều quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành trước ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, đồng thời, Nghị quyết số 109 cũng xác định những trường hợp nào được áp dụng hồi tố, trường hợp nào không được áp dụng hồi tố và đưa ra những quy định chuyển tiếp để xử lý đối với những trường hợp hành vi phạm tội xảy ra trước ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, nhưng sau ngày này mới bị phát hiện hoặc vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị kết án đang chấp hành án, đang được hoãn, tạm đình chỉ thi hành án hoặc đã chấp hành xong bản án. Đặc biệt, Nghị quyết số 109 quy định 04 trường hợp cần phải xử lý ngay kể từ ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 được công bố (ngày 09/12/2015). Tuy nhiên, cũng còn nhiều ý kiến khác nhau về hiệu lực thời gian theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109 của Quốc hội. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin đề cập đến nội dung của Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 và những quy định của Nghị quyết số 109 hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015.