Sự tài trợ của bên thứ ba đã trở thành một vấn đề nhận được nhiều sự chú ý của các chuyên gia trọng tài quốc tế vì nhu cầu cần trợ giúp về tài chính của các chủ thể tham gia tố tụng và mục đích lợi nhuận của các nhà tài trợ nhắm đến lĩnh vực này
[1]. Các vụ kiện có giá trị lớn, thời gian xử lý nhanh chóng, tiết kiệm chi phí tố tụng, thủ tục xử lý đơn giản đã mang đến sự phổ biến của cơ chế này trong tố tụng trọng tài quốc tế. Do đó, việc bảo đảm chuyên môn của trọng tài viên cũng như hiệu lực thi hành của các phán quyết là điều cần thiết để giữ sự hấp dẫn vốn có của tố tụng trọng tài trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, một trong các biến số có thể ảnh hưởng đến quá trình xét xử của hội đồng trọng tài cần được nghiên cứu là sự tài trợ của bên thứ ba cho nguyên đơn hoặc bị đơn trong quá trình giải quyết vụ việc.
1. Khái quát chung về tài trợ của bên thứ ba
Việc một bên thứ ba trả phí luật sư cho một bên tham gia vụ kiện đã tồn tại trong lĩnh vực hàng hải hơn một thế kỷ trước, do đó, hiện tượng tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài không hẳn là một vấn đề mới hoàn toàn. Tài trợ của bên thứ ba có thể tồn tại ở nhiều hình thức và quy mô khác nhau như các công cụ nợ, tài sản bảo đảm, vốn chủ sở hữu, chuyển giao quyền cơ bản liên quan đến lợi ích tài chính... Do tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau như vậy nên không có một khái niệm cụ thể về tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài
[2]. Thêm vào đó, bên thứ ba có thể tài trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí của quá trình tố tụng trọng tài cho một bên tranh chấp và đổi lại thì nhà tài trợ có thể nhận được một tỷ lệ phân chia nhất định đối với khoản tiền bồi thường từ phán quyết trọng tài.
Theo quan điểm của Hội đồng Trọng tài thương mại quốc tế (ICCA) thì bất kỳ cá nhân, tổ chức nào hỗ trợ tài chính hoặc đóng góp quỹ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một bên tranh chấp và nhận lại lợi ích vật chất (dưới nhiều hình thức khác nhau) liên quan đến một phán quyết của trọng tài thì đó được xem là bên tài trợ thứ ba
[3]. Sau đó, ICCA có chút thay đổi và bổ sung cụ thể hơn về quan điểm này như sau: Bất kỳ thể nhân hoặc pháp nhân nào, tuy không phải là một bên tranh chấp trong vụ kiện, tham gia vào một thỏa thuận với mục đích tài trợ, hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí tố tụng và được nhận “thù lao”, “khoản bồi hoàn” phụ thuộc vào kết quả từ phán quyết của trọng tài thì được xem là bên tài trợ thứ ba
[4].
Từ những định nghĩa của ICCA, có thể khái quát lại các yếu tố cơ bản của một khoản tài trợ từ bên thứ ba trong xét xử trọng tài: (i) Bên thứ ba không phải là một bên có quyền và lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp; (ii) Bên tài trợ thứ ba có thể thỏa thuận hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ các khoản thanh toán cho hoạt động kiện tụng của bên nhận tài trợ; (iii) Bên tài trợ có quyền nhận được một khoản thanh toán phí cố định hoặc theo tỷ lệ được nêu rõ trong thỏa thuận tài trợ nếu phán quyết có lợi cho bên nhận tài trợ; (iv) Trong trường hợp phán quyết bất lợi thì bên tài trợ phải thực hiện đúng cam kết chi trả các chi phí của hoạt động tham gia quá trình tố tụng của bên nhận tài trợ.
2. Một số vấn đề về tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài
2.1. Nghĩa vụ công bố thông tin
Nghĩa vụ công bố thông tin một phần được giải quyết trong “IBA Guidelines on Conflict of Interest” khi yêu cầu các trọng tài viên và các bên tranh chấp có quyền yêu cầu tiết lộ về bất kỳ quan hệ tài trợ nào của bên thứ ba
[5]. Tuy nhiên, nguyên tắc của IBA không mang tính ràng buộc và thậm chí là khi đã chấp nhận áp dụng các nguyên tắc này như một quy định ràng buộc thì cơ quan giải quyết tranh chấp vẫn phải áp dụng thêm các quy định của pháp luật quốc gia để yêu cầu một bên công bố thông tin do nguyên tắc của IBA chỉ mang tính hướng dẫn và khái quát.
“Guidance Note for the disclosure of conflicts by arbitrators” của ICC cũng đã thể hiện một hướng giải quyết về vấn đề công bố thông tin về bên tài trợ thứ ba. Theo đó, các bên tranh chấp cần tiết lộ đầy đủ về các loại lợi ích, các mối quan hệ và các vấn đề liên quan có thể ảnh hưởng đến sự độc lập và tính không thiên vị của trọng tài viên
[6]. Điều 1 khoản 3 của “International Arbitration Practice Guideline - Interviews for Prospective Arbitrators” lưu ý rằng, nếu nhận thấy sự tham gia của một trọng tài viên và một bên tài trợ thứ ba trong một vụ tranh chấp có thể nảy sinh xung đột lợi ích thì các bên tham gia vụ việc có thể yêu cầu hội đồng trọng tài làm rõ vấn đề này bằng việc ban hành một lệnh yêu cầu các hồ sơ, thông tin tiết lộ cụ thể về vai trò, vị trí và các xung đột lợi ích có thể nảy sinh từ bên tài trợ.
Trong đầu tư quốc tế, Hiệp định “Transatlantic Trade and Investment Partnership” giữa Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã quy định về việc tiết lộ bắt buộc đối với các thỏa thuận tài trợ của bên thứ ba trong trọng tài
[7]. Trong báo cáo của ICCA - QMUL, Điều A.1 quy định nghĩa vụ chung của các bên tranh chấp là phải tiết lộ sự tồn tại của thỏa thuận tài trợ và danh tính của nhà tài trợ
[8]. Trong “Proposal for Amendment of the ICSID Rules”, dự thảo Điều 2.1 của “ICSID Arbitration Rules” quy định việc tiết lộ sự tồn tại của thỏa thuận tài trợ của bên thứ ba và tên của nhà tài trợ. Một số cơ quan trọng tài cho rằng họ đủ thẩm quyền để yêu cầu một bên trong một vụ tranh chấp tiết lộ về thỏa thuận tài trợ của bên thứ ba
[9].
2.2. Xung đột lợi ích giữa trọng tài viên và nhà tài trợ
Trên thực tế, nếu một bên tranh chấp không có ý định tiết lộ sự tồn tại của thỏa thuận tài trợ thì trọng tài viên khó có thể biết được sự tồn tại của nhà tài trợ
[10]. Ở góc độ bảo đảm tính hợp pháp cho sự tham gia của trọng tài viên, việc tiết lộ danh tính của bên tài trợ là việc cần thiết để ngăn chặn bất kỳ sự xung đột lợi ích nào có thể xảy ra. ICCA cho rằng, việc tránh xung đột lợi ích có thể nảy sinh giữa bên tài trợ và trọng tài viên không chỉ khẳng định tính hợp pháp của trọng tài viên khi tham gia xét xử vụ việc mà còn có lợi cho các bên vì điều này bảo đảm hiệu lực của phán quyết trọng tài quốc tế, đặc biệt là về vấn đề công nhận và thi hành phán quyết tại một quốc gia vì nếu phán quyết đã được ban hành nhưng Tòa án của một quốc gia phát hiện sự xung đột lợi ích và cho rằng, trọng tài viên trong vụ việc không đủ tư cách để tham gia thì việc công nhận và thi hành phán quyết trở nên khó khăn
[11].
2.3. Xung đột lợi ích giữa các bên tranh chấp, nhà tài trợ và luật sư
Thỏa thuận tài trợ của bên thứ ba đóng vai trò quan trọng và chiến lược đối với nhu cầu của bên tài trợ. Chính vì vậy, một thỏa thuận tài trợ chỉ nên thực hiện chính xác mục đích chung là cung cấp các khoản hỗ trợ về tài chính để giúp bên nhận tài trợ đạt được phán quyết có lợi. Nếu bên tài trợ can thiệp vào quá trình, nội dung của vụ việc thì có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của luật sư và có thể tạo ra xung đột lợi ích vì mối quan hệ của luật sư và bên tài trợ sẽ hình thành vì lợi ích tài chính
[12]. Một tình trạng có thể dự đoán được là luật sư sẽ không còn hành động vì quyền và lợi ích tốt nhất của khách hàng mà thay vào đó, họ sẽ bị phân tâm và cân nhắc đến lợi ích của bên tài trợ
[13].
2.4. Vấn đề bảo mật
Một trong những nguyên tắc xét xử của trọng tài đầu tư quốc tế là tính bảo mật, đặc trưng này cho thấy sự khác biệt đối với nguyên tắc xét xử tại Tòa án quốc gia là công khai. Đặc trưng này cũng giúp cho trọng tài quốc tế trở nên hấp dẫn hơn bởi các bên không muốn tiết lộ thông tin, danh tính, vụ việc tranh chấp của họ ra bên ngoài
[14].
“The Association of Litigation Funders (ALF) Code of Conduct” ghi nhận rằng, bên tài trợ phải tuân thủ việc bảo mật thông tin đối với tất cả các tài liệu liên quan đến vụ tranh chấp trong phạm vi yêu cầu của pháp luật và tuân theo các thỏa thuận bảo mật giữa bên tài trợ và bên nhận tài trợ (nếu có)
[15]. Như vậy, nếu thỏa thuận tài trợ không cho phép việc tiết lộ danh tính của bên tài trợ thì bên tài trợ không được tự động tiết lộ danh tính của mình. Chỉ trong các trường hợp cần truy tố tội phạm theo yêu cầu của tòa án hoặc yêu cầu tiết lộ thông tin của hội đồng trọng tài để tránh xung đột lợi ích thì bên tài trợ và bên nhận tài trợ mới phải tiết lộ thỏa thuận tài trợ.
2.5. Sự bảo đảm đối với khoản tài trợ của bên thứ ba
Một bên tranh chấp đã mất khả năng thanh toán, hoàn toàn dựa vào sự tài trợ của bên thứ ba để có thể tham gia vụ kiện thì cần có một khoản bảo đảm của bên thứ ba hoặc một sự cam kết của bên thứ ba bảo đảm sẽ thanh toán cho bên nhận tài trợ nếu phán quyết sau đó là bất lợi đối với họ
[16].
Trong vụ “Guaracachi America Inc. and Rurelec plc v. Bolivia”, hội đồng trọng tài cho rằng, bị đơn đã không chứng minh được mối quan hệ nhân quả của việc nguyên đơn không thể thực hiện phán quyết và việc bên tài trợ không bảo đảm cho quá trình hỗ trợ chi phí vụ việc
[17]. Trọng tài viên cho rằng, nguyên đơn trong vụ việc này không mất khả năng thanh toán và sự bảo đảm chi phí của bên thứ ba không ảnh hưởng đến việc thi hành phán quyết trọng tài của nguyên đơn.
Trong vụ “RSM v. Santa Lucia”, hội đồng trọng tài đã yêu cầu bên tài trợ phải cung cấp một sự bảo đảm cho những chi phí trong tương lai vì hội đồng nhận thấy bị đơn có thể thua trong vụ việc này và bên tài trợ có những hành vi trốn tránh các nghĩa vụ theo thỏa thuận tài trợ. Một trong những yếu tố để quyết định việc yêu cầu một sự bảo đảm đối với khoản tài trợ của bên thứ ba có thể là lịch sử tham gia các vụ kiện của bên tài trợ. Nếu trước đây, một bên tài trợ đã từng không thực hiện nghĩa vụ hỗ trợ và cung cấp chi phí cho bên nhận tài trợ trong một vụ việc khác thì đối với vụ việc hiện tại, hội đồng trọng tài thường sẽ yêu cầu bên tài trợ cung cấp một sự bảo đảm hoặc một cam kết bảo đảm cho quá trình thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận tài trợ
[18].
Tuy nhiên, một số hội đồng trọng tài cho rằng, yếu tố về sự mất khả năng thanh toán của bên nhận tài trợ là hiển nhiên và không cần yêu cầu một sự cam kết hay một sự bảo đảm từ người tài trợ vì trên thực tế thì bên nhận tài trợ thường phải gặp vấn đề về tài chính thì mới cần đến sự giúp đỡ của một bên thứ ba
[19]. Mặc dù vậy, các ngoại lệ vẫn có thể xảy ra và một số học giả đã cho rằng, khi xem xét đến việc yêu cầu bên thứ ba cung cấp các khoản bảo đảm hoặc lời cam kết thể hiện tính bảo đảm cho các khoản chi phí thì cần cân nhắc đến khả năng, nguồn vốn và tư cách của bên tài trợ cả ở giai đoạn trước đó và hiện tại
[20].
2.6. Trách nhiệm của nhà tài trợ trong trường hợp phán quyết bất lợi
Trong trường hợp bên được tài trợ là bên thua kiện, trọng tài viên thường không đủ thẩm quyền để ban hành một lệnh để yêu cầu bên tài trợ cung cấp các khoản chi phí theo thỏa thuận tài trợ. Điều này là do bên tài trợ thường không được thể hiện rõ trong thỏa thuận trọng tài.
Hiệp hội các nhà tài trợ kiện tụng của Vương quốc Anh và xứ Wales cho rằng, trong thỏa thuận tài trợ cần nêu rõ nghĩa vụ của bên tài trợ trong trường hợp thua kiện và trách nhiệm của bên tài trợ nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu thỏa thuận tài trợ là vô hiệu hoặc không được công nhận thì các bên tranh chấp không thể áp dụng biện pháp nào khác để yêu cầu chi phí từ nhà tài trợ. Do đó, tác giả cho rằng, các tổ chức trọng tài cần có quy chế riêng về vấn đề này hoặc pháp luật quốc gia cần bổ sung một số quy định để giải quyết vấn đề trốn tránh trách nhiệm của bên tài trợ thứ ba. Đó có thể là yêu cầu bắt buộc đối với nhà tài trợ về việc nộp các khoản bảo đảm chi phí trước khi có phán quyết trọng tài.
3. Tài trợ của bên thứ ba ở một số quốc gia trên thế giới
Tài trợ của bên thứ ba không chỉ hiện diện trong trọng tài mà còn trong các vụ kiện tại Tòa án. Với bản chất là mối quan hệ giữa một bên tranh chấp và một bên không có lợi ích từ trước trong quá trình kiện tụng, sự tài trợ của bên thứ ba là sự thỏa thuận giữa hai bên mà có thể bên tranh chấp còn lại và tổ chức trọng tài không biết được sự tồn tại của mối quan hệ này. Nhà tài trợ có quyền được hưởng một số tiền tùy thuộc vào thỏa thuận và kết quả của phán quyết. Một điểm đáng lưu ý là nếu vụ kiện không thành công thì bên tài trợ không thể được hưởng khoản lợi ích vật chất đã thỏa thuận. Quan trọng hơn, trong trường hợp thua kiện, tùy thuộc theo thỏa thuận, bên tài trợ còn phải hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu bồi thường, chi phí thua kiện cho bên nhận tài trợ nếu kết quả từ phán quyết có yêu cầu các khoản bồi thường tiền cho bên thắng kiện.
3.1. Vương quốc Anh và xứ Wales
Ở Vương quốc Anh, tài trợ của bên thứ ba là một vấn đề khá mới trong thực tiễn
[21] nhưng quốc gia này cũng đã tiếp cận cơ chế tài trợ của bên thứ ba bằng cách ban hành “Code of Conduct for Litigation Funders” - Bộ quy tắc ứng xử dành cho các nhà tài trợ tranh tụng.
Trong vụ “Factortame”, Tòa án phúc thẩm đã nêu rõ quan điểm rằng, chỉ những thỏa thuận tài trợ làm ảnh hưởng đến bản chất của công lý và làm suy yếu một cách thiếu hợp lý các kết luận của cơ quan tố tụng mới bị cấm theo học thuyết “Maintenance and Champerty”
[22].
Ngoài ra, một điểm đáng lưu ý ở Anh là các hợp đồng tài trợ cũng sẽ không thể thực thi và bị nhìn nhận là vô hiệu nếu “lợi tức”, “thù lao” mà bên tài trợ nhận được (khi vụ kiện thành công) cao hơn lợi ích vật chất mà bên nhận tài trợ được nhận từ phán quyết trọng tài.
Đối với phạm vi tài trợ, Tòa phúc thẩm trong vụ “Arkin v. Borchard Lines” cho rằng, các chi phí mà nhà tài trợ phải chịu, bất kể vụ kiện thành công hay thất bại cho bên nhận tài trợ, chỉ nằm trong phạm vi số vốn được cung cấp theo hợp đồng tài trợ trước đó
[23]. Điều này được đưa ra là nhằm để tránh các chi phí bất lợi quá mức cho bên tài trợ thứ ba, đặc biệt là trong trường hợp kết quả vụ kiện là bất lợi đối với bên nhận tài trợ.
3.2. Úc và New Zealand
Tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài được thừa nhận là một hành vi hợp pháp tại Úc vì quốc gia này cho rằng, đây là một trong những cách thức giúp cho các bên khiếu kiện có thể nâng cao khả năng tiếp cận công lý. Một bên thứ ba đóng vai trò tài trợ cho một bên tranh chấp sẽ không có quyền lợi trực tiếp đối với vụ án mà họ chỉ góp phần bảo đảm quyền được tiếp cận công lý cho một bên tranh chấp trong quá trình kiện tụng để đạt được phán quyết có lợi nhất.
Sự thừa nhận vai trò của bên tài trợ thứ ba trong trọng tài cũng diễn ra tại New Zealand. Tuy nhiên, quốc gia này lại có một yêu cầu đặc biệt về việc bên nhận tài trợ phải tự động công khai sự tham gia của bên tài trợ và thậm chí là yêu cầu tiết lộ cụ thể các thỏa thuận tài trợ nhằm mục đích tránh xung đột lợi ích
[24].
3.3. Thụy Sỹ
Tương tự như ở Úc và New Zealand, vai trò của bên tài trợ thứ ba trong trọng tài cũng được công nhận là hợp pháp tại Thụy Sỹ
[25]. Quốc gia này cũng đặt ra một điều kiện để thừa nhận hiệu lực một thỏa thuận tài trợ, đó là tính độc lập trong mối quan hệ giữa luật sư và bên tài trợ. Điều này có nghĩa là nhà tài trợ và luật sư của bên nhận tài trợ là hai chủ thể khác biệt, không có bất kỳ mối liên hệ lợi ích nào với nhau. Theo Tòa án tối cao liên bang của Thụy Sỹ thì khoản lợi ích mà bên tài trợ nhận được sau khi thắng kiện, nếu vượt quá 50% tổng số tiền nhận được từ phán quyết thì đó có thể là một hành vi vi phạm đạo đức
[26]. Tuy nhiên, cơ chế để xử lý sự vượt quá này vẫn còn bỏ ngỏ và trên thực tế, tại quốc gia này, các thỏa thuận tài trợ thường sẽ ghi nhận các khoản lợi nhuận mà bên tài trợ nhận được dao động từ 20% đến 40% tổng lợi ích có được từ phán quyết thắng kiện.
3.4. Hồng Kông và Singapore
Trong một giai đoạn trước đó, theo học thuyết “Maintenance and Champerty”
[27] thì tài trợ của bên thứ ba bị nghiêm cấm tại Singapore và Hồng Kông, vì vậy, một số bản án tại hai quốc gia này không thừa nhận cơ chế tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài
[28]. Các quốc gia này lo ngại rằng bên tài trợ thứ ba có thể vì lợi ích cá nhân mà tham gia vào nội dung vụ kiện, từ đó thao túng bên nhận tài trợ và luật sư để “thổi phồng” thiệt hại thực tế, để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như gây ảnh hưởng danh tính của bên tranh chấp và nhân chứng của bên tranh chấp còn lại, loại bỏ các bằng chứng bất lợi
[29].
Tuy nhiên, sự lo ngại về vấn đề này tại Hồng Kông và Singapore đã suy giảm vì các tổ chức trọng tài trên thế giới ngày càng công nhận và ưa chuộng sự tài trợ của bên thứ ba.
3.4.1. Singapore
Tại Singapore, vào ngày 1/3/2017, “Civil Law Act” (Chương 43) Mục 5A (1) có hiệu lực và xóa bỏ trách nhiệm dân sự đối với vấn đề thỏa thuận tài trợ trong trọng tài. “The Civil Law Act” (Chương 43) Mục 5B cùng với “Civil Law (Third-Party Funding) Regulation 2017” cung cấp một khuôn khổ mới để các thỏa thuận tài trợ trong trọng tài quốc tế và các thủ tục tố tụng liên quan có hiệu lực
[30]. Một thỏa thuận tài trợ có hiệu lực, theo đạo luật này, là một thỏa thuận mà trong đó nhà tài trợ phải có hoạt động kinh doanh tốt, có vốn cổ phần không thấp hơn 05 triệu HKD hoặc tài sản tương đương. Thực tế tại nước này cho thấy, các nhà tài trợ chuyên nghiệp đều sẽ đủ khả năng để đáp ứng yêu cầu theo luật
[31]. Nếu phát hiện bên tài trợ thứ ba không đáp ứng đủ yêu cầu theo “Civil Law Act” thì hội đồng trọng tài có quyền loại bỏ hiệu lực của thỏa thuận tài trợ
[32].
Quá trình lập pháp của Singapore không chỉ sửa đổi “Civil Law Act” mà còn sửa đổi “Legal Profession Act” và “Legal Profession (Professional Conduct) Rules 2015”
[33]. Điều 49A “Legal Profession (Professional Conduct) Rules 2015” quy định một người hành nghề pháp lý phải tiết lộ sự tồn tại của thỏa thuận tài trợ của bên thứ ba (cùng với danh tính và địa chỉ của nhà tài trợ có liên quan) càng sớm càng tốt
[34]. Theo Điều 49B (1) của “Legal Profession Rules 2015” thì một người hành nghề hợp pháp không được nắm giữ (trực tiếp hoặc gián tiếp) bất kỳ cổ phần hoặc lợi ích khác liên quan đến bên tài trợ mà người hành nghề pháp lý đã giới thiệu đến một khách hàng liên quan đến tranh chấp. Điều 49B (2) nêu rõ rằng, một người hành nghề luật sư không được nhận bất kỳ khoản hoa hồng, lệ phí hoặc chia sẻ số tiền thu được từ bên tài trợ bên thứ ba
[35].
Hiệp hội Luật Singapore đã ban hành “Guidance Note 10.1.1” để đưa ra “các cách thức tốt nhất dành cho luật sư trong việc giới thiệu, tư vấn hoặc đại diện cho khách hàng nhận được tài trợ của bên thứ ba”
[36]. Về vấn đề xung đột lợi ích, nếu có xung đột lợi ích giữa nhà tài trợ và bên nhận tài trợ, luật sư chỉ hành động vì lợi ích tốt nhất của khách hàng (bên nhận tài trợ). Luật sư cũng cần bảo đảm các nghĩa vụ của mình (theo hợp đồng dịch vụ pháp lý) sẽ không bị ảnh hưởng bởi thỏa thuận tài trợ.
Theo “Legal Profession (Professional Conduct) Rules 2015”, nghĩa vụ tiết lộ được giới hạn theo sự tồn tại của thỏa thuận tài trợ của bên thứ ba và danh tính và địa chỉ của nhà tài trợ liên quan
[37]. “Guidance Note 10.1.1” không quy định việc tiết lộ các điều khoản của hợp đồng tài trợ. Điều 8 trong “SIArb Guidelines for Third Party Funders” tuyên bố rằng: “Bên tài trợ nên thỏa thuận rõ ràng với bên được tài trợ và luật sư của họ về việc tiết lộ thông tin của thỏa thuận tài trợ cho hội đồng trọng tài nếu có bất kỳ quy tắc hiện hành hoặc lệnh của Ủy ban Trọng tài hoặc Tòa án yêu cầu phải tiết lộ thông tin”. Tuy nhiên, “SIArb Guidelines for Third Party Funders” không mang tính ràng buộc nên việc tiết lộ thông tin về bên tài trợ là tự nguyện theo luật hiện hành và chỉ cần thiết khi có sự yêu cầu của hội đồng trọng tài.
Vào ngày 31/3/2017, SIAC đã ban hành “Practice Note on Arbitrator conduct in cases involving Third-Party Funding” (“Practice Note PN 01-17”) về hành vi của trọng tài viên trong các vụ việc liên quan đến tài trợ của bên thứ ba; cụ thể là, SIAC trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền tiến hành các yêu cầu tiết lộ thông tin của bên tài trợ thứ ba trong trường hợp cần thiết, điều này sẽ bao gồm việc ra lệnh tiết lộ sự tồn tại của bất kỳ mối quan hệ tài trợ nào hoặc danh tính, mối quan tâm của nhà tài trợ đối với kết quả của quá trình tố tụng hoặc liệu nhà tài trợ bên ngoài có cam kết chịu trách nhiệm cho chi phí khi phán quyết bất lợi cho bên nhận tài trợ hay không. Theo Điều 24 (l) “Practice Note PN 01-17” của SIAC, hội đồng trọng tài có quyền yêu cầu tiết lộ sự tồn tại của thỏa thuận tài trợ của một bên và danh tính của nhà tài trợ và trong trường hợp cần thiết thì yêu cầu tiết lộ chi tiết các lợi ích của nhà tài trợ thứ ba đối với kết quả của quá trình tố tụng hoặc liệu bên tài trợ có cam kết chịu chi phí bất lợi trong trường hợp thua kiện hay không
[38].
Như vậy, tại Singapore, nếu các vụ việc được xử lý ở SIAC thì các bên có nghĩa vụ tiết lộ các điều khoản của hợp đồng tài trợ (nếu hội đồng trọng tài có yêu cầu về việc tiết lộ). Tuy nhiên, nếu vụ việc không được giải quyết tại SIAC (trọng tài vụ việc hoặc trọng tài ICC) thì thẩm quyền yêu cầu tiết lộ bị giới hạn theo thỏa thuận tài trợ.
3.4.2. Hồng Kông
Tại Hồng Kông, vào tháng 10/2016, “Law Reform Commission of Hong Kong Report” đã thể hiện xu hướng không cấm các thỏa thuận tài trợ trong tố tụng trọng tài.
Sự loại bỏ này được thể hiện thông qua “Arbitration and Mediation Legislation (Third Party Funding) (Amendment) Ordinance 2017 (The Amendment Ordinance)”
[39]. “The Amendment Ordinance” đưa ra định nghĩa về bên tài trợ thứ ba, theo đó, bên tài trợ là một bên thực hiện nghĩa vụ cung cấp kinh phí cho quá trình tố tụng trọng tài cho một bên và không có quyền lợi được pháp luật thừa nhận theo phán quyết của trọng tài ngoài khoản lợi ích được hưởng theo thỏa thuận tài trợ
[40].
Theo quy định của “The Amendment Ordinance”, các luật sư tham gia vào vụ việc không thể đóng vai trò như một nhà tài trợ. Mục 4120 quy định rằng, cơ quan có thể đặt ra các thông lệ và tiêu chuẩn mà các nhà tài trợ phải tuân thủ. Có thể thấy, pháp lệnh này không quy định việc yêu cầu bắt buộc tiết lộ thông tin về thỏa thuận tài trợ mà trao quyền cho các cơ quan trọng tài tự quy định về vấn đề này.
Theo “HKIAC Rules 2018”, Điều 44.1 cũng quy định việc tiết lộ sự tồn tại của thỏa thuận tài trợ và tên của người tài trợ.
Trung tâm Trọng tài CIETAC Hồng Kông đã ban hành “TPF Guidelines 1.1” để khuyến khích các bên tranh chấp và các trọng tài viên phải tuân theo các thủ tục tố tụng do CIETAC Hồng Kông quản lý, trong đó có các yêu cầu liên quan đến tài trợ của bên thứ ba
[41].
Theo “Guidelines 3.1”, bên được tài trợ phải thông báo bằng văn bản cho hội đồng trọng tài và mỗi bên tranh chấp thông qua thủ tục của Trọng tài CIETAC Hồng Kông về sự tồn tại của một thỏa thuận tài trợ và tên của người tài trợ
[42]. Về vấn đề bảo đảm chi phí của bên tài trợ trong trường hợp thua kiện đối với bên nhận tài trợ, hội đồng trọng tài có thể xem xét “liệu sự tồn tại và mức độ của nguồn tài trợ có phải là một yếu tố quan trọng để thực thi phán quyết hay không”
[43].
Có thể thấy, cách tiếp cận về nghĩa vụ của luật sư và nghĩa vụ của bên nhận tài trợ ở Hồng Kông và Singapore cũng cho thấy sự khác biệt và vẫn chưa đánh giá được cách nào phù hợp hơn. Ở góc độ áp dụng đối với luật sư, có thể thấy, việc yêu cầu tiết lộ chi tiết sự tài trợ của bên thứ ba ở Singapore có thể được thực thi chặt chẽ hơn vì nghĩa vụ được áp dụng trực tiếp đối với luật sư trong vụ kiện. Luật sư sẽ bảo vệ lợi ích tốt nhất của khách hàng trong khuôn khổ pháp luật và các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, do đó, khi pháp luật yêu cầu họ phải tiết lộ thông tin về bên tài trợ thứ ba thì chắc chắn họ sẽ tuân thủ nghiêm minh. Ngược lại, ở Hồng Kông, nghĩa vụ tiết lộ thông tin không đặt ra trực tiếp đối với luật sư mà phụ thuộc vào yêu cầu của hội đồng trong tài. Tùy thuộc vào quy chế của các tổ chức trọng tài ở Hồng Kông mà hội đồng trọng tài có thẩm quyền yêu cầu tiết lộ thông tin về bên tài trợ. Đáng lưu ý là, việc không tiết lộ thông tin về bên tài trợ thứ ba tại Hồng Kông sẽ không khiến bất kỳ chủ thể nào phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm kỷ luật.
4. Một số khuyến nghị cho pháp luật Việt Nam về tài trợ của bên thứ ba
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa thừa nhận cơ chế tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài mặc dù đây sẽ là một cơ chế mang lại nhiều tiềm năng phát triển cho quá trình tố tụng tại Việt Nam. Do đó, để có thể tiếp cận cơ chế này một cách cơ bản nhất thì Việt Nam cần tiếp cận các vấn đề mang tính bản chất của hoạt động tài trợ từ bên thứ ba theo hướng:
Một là, pháp luật trọng tài Việt Nam có thể cụ thể hóa khái niệm về tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài. Dựa theo khái niệm của ICCA về các yếu tố cơ bản của hoạt động tài trợ từ bên thứ ba, Việt Nam có thể tạo ra các yếu tố riêng để phù hợp với bối cảnh trong nước. Điều này bao gồm các tiêu chí riêng về khái niệm nhà tài trợ, các điều kiện để một pháp nhân, thể nhân có thể trở thành một bên tài trợ. Cần nhìn nhận rằng, không phải bất kỳ tổ chức nào cũng có thể trở thành nhà tài trợ cho một bên tranh chấp mà họ cần phải đáp ứng các điều kiện về vốn doanh nghiệp tối thiểu, hoạt động kinh doanh ổn định…
Hai là, quy định về sự bảo mật đối với nội dung tài trợ cần được bảo đảm và chỉ tiết lộ khi thực sự cần thiết và phải theo yêu cầu của trọng tài viên hoặc cơ quan có thẩm quyền khác. Tuy nhiên, tính bảo mật chỉ được duy trì đối với nội dung của thỏa thuận tài trợ; đối với sự tồn tại của hợp đồng tài trợ và tên của nhà tài trợ thì Việt Nam cũng cần tham khảo quy định của pháp luật Hồng Kông về việc tiết lộ những thông tin này để đánh giá sự hợp pháp của thỏa thuận thông qua các tiêu chuẩn về một nhà tài trợ có đáp ứng được hay không. Một điểm đáng lưu ý là, việc bảo mật không chỉ giới hạn đối với hai bên trong quan hệ tài trợ mà còn áp dụng đối với trọng tài viên và tổ chức trọng tài trong trường hợp nội dung thỏa thuận đã được hội đồng trọng tài yêu cầu tiết lộ. Bởi, nếu trọng tài viên sau khi biết được nội dung của hợp đồng tài trợ nhưng không bảo đảm được tính bảo mật cho nội dung này thì có thể phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của một bên hoặc cả hai bên trong quan hệ tài trợ.
Ba là, Việt Nam khi tiếp cận cơ chế tài trợ của bên thứ ba cần nhìn nhận và quy định rõ về vấn đề xung đột lợi ích. Dù sự tồn tại của quan hệ tài trợ đem đến nhiều lợi ích về mặt pháp luật và kinh tế nhưng vẫn tiềm ẩn những rủi ro mà trong đó nguy cơ nhất chính là việc nảy sinh xung đột lợi ích giữa các bên liên quan. Vì vậy, việc quy định chi tiết về quá trình, thời gian, nghĩa vụ công bố thông tin về quan hệ tài trợ cho cơ quan trọng tài là điều cần thiết để hạn chế các xung đột lợi ích có thể diễn ra giữa trọng tài viên, bên nhận tài trợ, luật sư và bên tài trợ. Như đã đề cập ở giải pháp thứ hai, tiêu chuẩn về nhà tài trợ cần phải được đáp ứng và do đó, việc thông báo về danh tính của bên tài trợ không chỉ là ngoại lệ của tính bảo mật mà còn là cách để xem xét có xảy ra những xung đột lợi ích giữa nhà tài trợ với trọng tài viên, luật sư hoặc các bên tranh chấp khác có liên quan hay không. Đồng thời, việc cố ý không thông báo hoặc che đậy về sự tồn tại của một quan hệ tài trợ cũng cần phải có chế tài xử lý từ cơ quan chuyên môn để bảo đảm sự thiện chí, tính trung thực trong quá trình tố tụng trọng tài.
Nhìn chung, trong tương lai, nếu Việt Nam ghi nhận hoạt động này trong tố tụng trọng tài thì cần tiếp cận và quy định rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật về khái niệm của tài trợ từ bên thứ ba, tính bảo mật của thỏa thuận trọng tài, sự tiết lộ về danh tính và tiêu chuẩn của nhà tài trợ, tính minh bạch và sự xung đột lợi ích của nhà tài trợ với các chủ thể có liên quan trong quá trình tố tụng, cơ chế xử lý những trường hợp không thông báo hoặc che giấu sự tồn tại của hợp đồng tài trợ. Việc sửa đổi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 trong thời gian tới có thể xem xét đến cơ chế tài trợ của bên thứ ba để tạo điều kiện cho nhiều chủ thể có thể tiếp cận quá trình giải quyết vụ việc tại trọng tài, nâng cao khả năng tiếp cận công lý của những chủ thể trong một vụ tranh chấp và tạo ra cơ hội đầu tư cho các nhà tài trợ chuyên nghiệp trên thị trường.
ThS. Trần Nguyễn Phước Thông
Trung tâm Liên kết đào tạo luật sư thương mại quốc tế, Học viện Tư pháp
[1] James Clanchy (2016), “Navigating the Waters of Third-Party Funding in Arbitration”, Arbitration: The International Journal of Arbitration, Mediation and Dispute Management Volume 82, Issue 3, p. 222.
[2] Duarte G. Henriques (2018), “Third-Party Funding – In search of a definition”, The American Review of International Arbitration, Vol. 28, No. 4, p .405 - 431.
[3] William W. Park and Catherine Rogers (2014), “Third-Party Funding in International Arbitration: The ICCA - Queen Mary Task Force”, Penn State Law, Legal Studies Research Paper No. 42, p. 5.
[4] ICCA - QMUL Final Report on Third-Party Funding in International Arbitration, p. 50.
[5] IBA Guidelines on Conflicts of Interest, General Standard 6b and 7a.
[6] CIArb Code of Professional and Ethical Conduct for Members, Part 2, Rule 3.
[7] Eric De Brabandere (2016), “’Mercantile Adventurers’? The Disclosure of Third-Party Finding in Investment Treaty Arbitration”, Grotius Centre Working Paper 2016/059-IEL, p. 9.
[8] ICCA – QMUL Final Report, p. 81.
[9] Muhammet Çap & Sehil Inşaat Endustri ve Ticaret Ltd. Sti. v. Turkmenistan (ICSID Case No. ARB/1216, Procedural Order No. 3, 12 June 2015).
Oxus Gold plc v. Republic of Uzbekistan.
the State Committee of Uzbekistan for Geology & Mineral Resources, and Navoi Mining & Metallurgical Kombinat (under UNCITRAL Arbitration Rules 2010) and EuroGas Inc and Belmont Resources Inc v. Slovak Republic (ICSID Case No. ARB/14/14).
[10] Catherine A. Rogers (2014), “Ethics in International Arbitration”, Oxford University Press, p. 200.
[11] ICCA-QMUL Final Report, p. 82.
[12] The Association of Litigation Funders (ALF) Code of Conduct, point 9.3.
[13] Fostif Pty Limited v. Campbells Cash and Carry Pty Limited [2005];
Sai Ramani Garimella (2014), “Third Party Funding in International Arbitration: Issues and Challenges in Asian Jurisdiction”, in AALCO Journal of International Law, Vol. 3, Issue 1, pp. 52 - 53;
In Raafat v. Life (China) Company Limited and Others [2018] HKCFI 1852.
[14] Nigel Blackaby and Constantine Partasides with Aland Redfern and Martin Hunter (2009), “Redfern and Hunter on International Arbitration”, 5th Edition, Oxford University Press, p. 138.
[15] ALF Code of Conduct, point 7.
[16] Procedural Order No. 3 of 4 July 2008 in an ICC Arbitration with its seat in Berne between X. S.A.R.L. (Lebanon (Claimant), and Y. AG, Germany (Respondent)).
[17] Guaracachi America Inc. and Rurelec plc v. Plurinational State of Bolivia PCA (Case No. 2011-17, Procedural Order No. 14 (11 March 2013), para 6-7).
[18] RSM Production Corporation v. Saint Lucia. ICSID Case No. ARB/12/10, Decision on Saint Lucia’s Request for Security for Costs (13 August 2014), para 86.
[19] EuroGas Inc. and Belmont Resources Inc. v. Slovak Republic. ICSID Case No.ARB/14/14, Procedural Order No. 3 (23 June 2015) para 123.
[20] Dmytro Galagan and Patricia Živković (2015), “If they finance your claim, will they pay me if I win: implications of third party funding on adverse costs awards in international arbitration”, European Scientific Journal, e-ISSN 1857-7431, p. 15.
[22] Factortame (No.8) [2002] EWCA Civ 932.
[23] Arkin v. Borchard Lines [2005] EWCA Civ 655.
[24] Waterhouse v. Contractors Bonding Ltd [2013] NZSC 89.
[25] TSF 10.12.2004, case 2P_242/2004.
[26] TSF 22.1.2015, case 2C_814/2014.
[27] Massai Aviation Services v. Attorney General [2007] UKPC 12.
[28] Unruh v. Seeberger and another [2007] 10 HKCFAR 31.
[29] Re Trepca Mines Ltd (No.2) [1963] Ch. 199;
British Cash and Parcel Avv. Bernardo Cartoni, FCIArb Conveyors v. Lamson Store Service Co.
[30] Matthew Secomb and Adam Wallin (2018), “Fine-tuning third-party arbitration funding in Hong Kong and Singapore”, The Third Party Litigation Funding Law Review, Leslie Perin (ed.), Chapter 13, p. 127.
[31] Phillip Morris v. Uruguay (ICSID ARB/10/7).
[32] Section 5B (5) and 5B (6), Civil Law Act (Chapter 43).
[33] Section 71 (2)(a) and 71 (2)(c) Professional Conduct Code.
[34] The Law Society of Singapore, Guidance Note 10.1.1, para 52.
[35] Section 6.1.2, SRA Code of Conduct (Outcome 6.4) for English Solicitors.
[36] Guidance Note 10.1.1, para 2.
[37] Section 49A, Legal Profession (Professional Conduct) Rules 2015.
[38] Practice Note PN 01-17, para 10.
[39] Arbitration and Mediation Legislation (Third Party Funding) (Amendment) Ordinance 2017 (The Amendment Ordinance), (Hong).
[40] Part 2, Section 3, Point 98I, the Amendment Ordinance.
[41] CIETAC Hong Kong TPF Guidelines, Guideline 1.1.
[42] CIETAC Hong Kong TPF Guidelines, Guideline 3.2.
[43] CIETAC Hong Kong TPF Guidelines, Guideline 4.3.
CIETAC Investment Arbitration Rules 2017, art. 27.2 and art. 27.3.