Thực trạng và định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Sign In

Thực trạng và định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa trong bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

1. Thực trạng hệ thống pháp luật về văn hóa
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật có nhiều luật, nghị định, quyết định, thông tư, thông tư liên tịch điều chỉnh trực tiếp đến các lĩnh vực văn hóa, gia đình. Qua rà soát, phân tích, đánh giá hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình cho thấy có một số ưu điểm và hạn chế:
1.1. Về ưu điểm
Một là, hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình đã từng bước có hiệu lực pháp lý cao hơn, hạn chế được sự cồng kềnh, thiếu những quy tắc xử sự cụ thể.
Trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2021, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã giúp Chính phủ tham mưu, trình Quốc hội ban hành 01 luật; trình Chính phủ ban hành 18 nghị định và ban hành 25 thông tư về lĩnh vực văn hóa, gia đình. So với giai đoạn 2012 - 2016, số lượng nghị định được ban hành tăng và số lượng thông tư được ban hành giảm đi khá nhiều (13 nghị định và 45 thông tư). Bên cạnh đó, qua rà soát, hệ thống hóa tổng thể hệ thống pháp luật cho thấy số lượng văn bản điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực văn hóa, gia đình đã giảm khoảng 10% (hệ thống văn bản pháp luật về văn hóa, gia đình hiện có khoảng 160 văn bản quy phạm pháp luật). Đặc biệt, các văn bản mới được ban hành mang tính đồng bộ, tổng thể, có giá trị pháp lý cao hơn, điều chỉnh cụ thể các lĩnh vực chuyên ngành và việc áp dụng đã bước đầu mang lại hiệu quả thể hiện ở các lĩnh vực như: Thư viện, nhiếp ảnh, xét tặng danh hiệu văn hóa, quản lý lễ hội, nghệ thuật biểu diễn, xử phạt hành chính... Điển hình là lĩnh vực thư viện, sau khi Luật Thư viện được ban hành năm 2019 thì trong năm 2020, tất cả các văn bản quy định chi tiết Luật Thư viện đều đã được ban hành để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ cho việc áp dụng, thực hiện trên thực tế.
Hai là, hệ thống pháp luật về văn hóa đã từng bước thể chế hóa đầy đủ, toàn diện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Hiến pháp năm 2013 về phát triển văn hóa, gia đình và mục tiêu xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững của đất nước.
Các văn kiện của Đảng xác định phương hướng, mục tiêu phát triển văn hóa, gia đình và xây dựng con người mới với nhiều nội dung có tính định hướng mới, theo đó, phương hướng mục tiêu chung là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hiến pháp năm 2013 khẳng định mọi người đều có quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó; mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa. Đồng thời, các văn kiện của Đảng và Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước, xã hội là chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát triển văn học nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân; tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.
Ba là, hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình đã khắc phục được một phần những vướng mắc, bất cập về mặt nội dung góp phần tháo gỡ điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực thúc đẩy hoạt động văn hóa, gia đình phát triển, cụ thể là:
- Việc phân cấp quản lý một số lĩnh vực của Ngành đã được thực hiện như: Quản lý lễ hội, quản lý hoạt động hành nghề tu bổ di tích, quản lý karaoke, vũ trường…;
- Bãi bỏ nhiều thủ tục hành chính, chuyển đổi cơ chế từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” mà điển hình là lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh…;
- Tổ chức, bộ máy của Ngành được quy định chi tiết, cụ thể, rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực thi nhiệm vụ, ổn định nhân sự, cơ cấu tổ chức;
- Định mức kinh tế - kỹ thuật về lĩnh vực văn hóa, gia đình từng bước được cụ thể hóa, kể cả trong những loại hình công việc khó xác định như xây dựng tượng đài, tranh…
1.2. Về tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành công như trên, hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình còn có những tồn tại, hạn chế như sau:
Một là, về hình thức: Hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình có số lượng lớn, cồng kềnh, nhiều văn bản có hiệu lực pháp lý và tính quy phạm thấp, thiếu những quy tắc xử sự cụ thể cho các chủ thể thực hiện, nhiều văn bản chứa đựng những quy định mang tính “tuyên ngôn” hơn là quy phạm pháp luật.
Hệ thống văn bản pháp luật về văn hóa, gia đình có khoảng 160 văn bản quy phạm pháp luật, gồm nhiều loại khác nhau từ luật, pháp lệnh đến thông tư (chưa tính văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền địa phương ban hành), với số lượng văn bản lớn như vậy thì việc tồn tại những mâu thuẫn, chồng chéo là khó tránh khỏi, đồng thời tính minh bạch giảm khiến cho pháp luật trở lên phức tạp, khó áp dụng. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình còn thể hiện sự thiếu đồng bộ, chưa tương xứng, theo đó có lĩnh vực có luật điều chỉnh, có lĩnh vực chỉ có nghị định, thậm trí nhiều nội dung quản lý nhà nước chỉ được điều chỉnh bởi một thông tư.
Đặc biệt, trong lĩnh vực văn hóa, còn rất nhiều lĩnh vực chuyên môn chưa có luật hoặc pháp lệnh điều chỉnh như trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, xây dựng môi trường văn hóa, thiết chế văn hóa, tuyên truyền cổ động chính trị, quyền và nghĩa vụ của văn nghệ sỹ... Thậm chí, có lĩnh vực chưa có văn bản điều chỉnh như lĩnh vực văn học, quản lý hoạt động trò chơi... Điều này ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý nhà nước về từng lĩnh vực vì mỗi lĩnh vực cần hệ thống chính sách để phát triển. Ngoài ra, mỗi lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ với một số ngành, lĩnh vực khác như đầu tư kinh doanh, di sản, bản quyền, lao động, giáo dục đào tạo... Trong khi đó, các ngành, lĩnh vực này đều đã có luật điều chỉnh nên khi xử lý những vấn đề liên ngành thì lĩnh vực chưa có luật điều chỉnh sẽ rất khó bảo vệ được nhiệm vụ đặc thù để đáp ứng yêu cầu quản lý chuyên môn.
Hai là, về nội dung: Một số vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như vấn đề văn học mạng; thẩm định và hậu kiểm thể loại phim sản xuất và phát hành trên internet; vấn đề quản lý tư tưởng, đạo đức, lối sống; chính sách đối với nghệ nhân dân gian; ứng xử văn hóa trên không gian mạng; vấn đề an ninh văn hóa, an ninh con người trong bối cảnh hội nhập toàn cầu; phát triển công nghiệp văn hóa và sự thích ứng của văn hóa truyền thống trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư... Những vấn đề mới phát sinh này còn chậm được thể chế hóa thậm chí chưa có văn bản điều chỉnh như lĩnh vực văn học... gây khó khăn cho công tác quản lý văn hóa trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay.
Ba là, việc quản lý, phát huy hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực văn hóa còn chưa tương xứng với yêu cầu, ảnh hưởng và làm giảm đáng kể đến hiệu quả quản lý nhà nước của ngành, phát sinh nhiều bất cập trong các hoạt động thực tiễn như:
- Nạn mê tín dị đoan, lợi dụng tín ngưỡng, tâm linh, ngoại cảm để trục lợi, các hủ tục cũ, mới tràn lan, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội… có chiều hướng gia tăng...
- Việc phục hồi và phát huy văn hóa truyền thống, nhất là việc tổ chức lễ hội, còn mang tính tự phát, mang tính phong trào, thiếu chọn lọc; chưa khai thác, phát huy được đầy đủ nét độc đáo, bản sắc riêng và giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống; đồng thời, cũng chưa chú ý phát huy tính chủ động của quần chúng, vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng chưa thật sự được coi trọng, ảnh hưởng tới chất lượng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc.
- Trong sáng tác, biểu diễn, truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật còn không ít tác phẩm và hoạt động chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc dân tộc... Tình trạng nghiệp dư hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp có chiều hướng tăng lên...
2. Bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự tác động đến hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) được phát triển trên ba trụ cột chính là: Kỹ thuật số; công nghệ sinh học và vật lý vạn vật. Trong đó, công nghệ thông tin được sử dụng là nòng cốt cho sự phát triển. Internet kết nối vạn vật, bigdata, trí tuệ nhân tạo, công nghệ 3D, robot, sự chia sẻ thông tin dữ liệu và liên thông các hệ thống thông tin được ứng dụng mạnh vào mọi mặt của đời sống xã hội.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ và làm thay đổi nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự ứng dụng rộng rãi những thành tựu từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là sự gia tăng của nền kinh tế số, kinh tế sáng tạo, kinh tế chia sẻ, sự thông minh hóa quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng sản phẩm, thông minh hóa quá trình quản trị xã hội, hình thành các mối quan hệ xã hội mới, những tương tác mới giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người lao động và người tiêu dùng, giữa người dân và chính quyền đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Những vấn đề này đang thách thức những quan điểm pháp lý truyền thống, đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, gia đình cần phải có những điều chỉnh tương ứng.
 Chính vì vậy việc nghiên cứu, đánh giá hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm đánh giá chuyên sâu chính sách, pháp luật về văn hóa, gia đình để đi đến tìm kiếm những định hướng, giải pháp, nguyên tắc chung mang tính đồng bộ, khả thi và có lộ trình cụ thể cho những ứng xử của pháp luật về văn hóa đối với những tác động kinh tế - xã hội của công nghệ mới thực sự cần thiết và là đòi hỏi tất yếu.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể tác động, ảnh hưởng đến hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình ở một số vấn đề như sau:
- Một số sản phẩm, dịch vụ văn hóa có xu hướng chuyển dần sang công nghệ số, không gian mạng thách thức các quy định mang tính truyền thống như: Sản xuất phim, phát hành và phổ biến phim; sân khấu ảo với các chương trình nghệ thuật mang tính ứng dụng công nghệ cao; hoạt động số hóa các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, bảo tàng… để sử dụng trên không gian mạng nhằm quảng bá, khai thác…; quảng cáo xuyên quốc gia với các hình thức quảng cáo hoàn toàn mới…
- Yêu cầu về ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các mặt công tác chuyên môn thuộc lĩnh vực văn hóa là hết sức quan trọng và cần thiết. Cụ thể như ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; trong phát triển công nghiệp điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm; trong công tác bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan… Điều này đòi hỏi các quy định truyền thống hiện hành phải có sự thay đổi nhằm tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho sự phát triển mạnh mẽ hơn.
- Cách mạng công nghiệp 4.0 với nền tảng số, internet toàn cầu, trí tuệ nhân tạo sẽ tạo ra xu hướng mới trong sinh hoạt cộng đồng, gia đình và xã hội với những đô thị, khu dân cư thông minh dễ làm mất đi bản sắc văn hóa cộng đồng truyền thống... Điều này thách thức các quy định của pháp luật hiện hành về bảo tồn di sản văn hóa truyền thống, về công tác văn hóa cơ sở, về công tác gia đình… đòi hỏi phải được nghiên cứu hiện trạng kinh tế - xã hội và nhu cầu sống và làm việc của người dân, để tạo cơ sở pháp lý phù hợp cho các cộng đồng sống và làm việc đa dạng, với sự hỗ trợ của nhiều cấp độ ứng dụng công nghệ thông minh, nhưng vẫn bảo tồn và phát huy được các giá trị văn hóa truyền thống.
Từ thực tiễn nêu trên đòi hỏi một hệ thống pháp luật cần phải được xây dựng, hoàn thiện để phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ quyền con người, tăng cường hiệu quả của Nhà nước pháp quyền. Vì vậy, một vấn đề luôn được đặt ra ở các diễn đàn về cách mạng công nghiệp 4.0 chính là Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình nói riêng để thích ứng với yêu cầu này.
3. Một số vấn đề đặt ra đối với hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình và định hướng hoàn thiện trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
3.1. Một số vấn đề đặt ra đối với pháp luật về văn hóa ở từng lĩnh vực cụ thể
Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một số vấn đề đặt ra đối với các quy định của pháp luật ở năm lĩnh vực chuyên ngành về văn hóa đòi hỏi cần có sự điều chỉnh, bổ sung, quy định chi tiết hơn gồm: Di sản văn hóa, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật nhiếp ảnh và triển lãm, quảng cáo.
3.1.1. Đối với lĩnh vực điện ảnh
- Vấn đề phổ biến phim trên không gian mạng có quy định về quản lý thế nào cho phù hợp trong khi việc cấp phép kiểm duyệt đối với từng phim trước khi phổ biến là không khả thi.
- Công nghệ sản xuất, phát hành, phổ biến chuyển từ truyền thống sang công nghệ số, hiệu ứng đặc biệt, thực tế ảo đặt ra các quy định về quản lý nhà nước như thế nào cho phù hợp.
- Diễn viên kỹ thuật số sẽ được định danh hoặc quản lý như thế nào trong thời gian tới.
3.1.2. Đối với lĩnh vực di sản văn hóa
- Xu hướng “số hóa” di sản, bảo tàng đặt ra những vấn đề cần quản lý, cấp phép di sản, bảo tàng số như thế nào trong thời gian tới để việc quản lý, khai thác có hiệu quả; hoạt động của bảo tàng, di sản số trên không gian mạng sẽ cần phải được quản lý như thế nào cho phù hợp.
- Hoạt động thuyết minh tự động gắn với thiết bị tai nghe (audio guide), thiết bị nghe nhìn (media guide), thiết bị nghe nhìn có tương tác… đặt ra trách nhiệm thẩm định về nội dung, hình thức sẽ được quy định như thế nào trong thời gian tới.
- Các yêu cầu đối với quá trình “số hóa” di vật, cổ vật; hoạt động mua bán bản kỹ thuật số dựa trên công nghệ blockchain đối với di vật, cổ vật có cần quản lý hay để thị trường tự điều chỉnh.
3.1.3. Đối với lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm
- Các triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh ảo, thông minh, triển lãm trên không gian mạng đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu mới trong công tác quản lý; cần phải quản lý như thế nào cho phù hợp; có cấp phép không hay chỉ đưa ra các tiêu chí cụ thể.
- Trong tương lai gần chúng ta có nên công nhận về mặt pháp lý họa sĩ robot hay không vì hiện nay đang có vấn đề về sở hữu, đăng ký bản quyền tranh, ảnh của họa sĩ robot hoặc sự kết hợp giữa họa sĩ thật và họa sĩ robot.
- Xu hướng số hóa các tác phẩm tranh, ảnh có giá trị từ đó đặt ra vấn đề quản lý hoạt động mua bán, đấu giá sản phẩm số như thế nào.
3.1.4. Tác động đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
- “Nhà hát online”, hoạt động nghệ thuật biểu diễn trên không gian mạng, xuyên biên giới cần phải được quản lý thế nào; có cấp phép hay chỉ đặt ra các tiêu chí, yêu cầu về nội dung, hình thức; cách thức, cơ chế xử lý vi phạm như thế nào cho đúng và phù hợp.
- Trong tương lai gần chúng ta có nên công nhận về mặt pháp lý trí tuệ nhân tạo sáng tác âm nhạc hay không vì hiện nay đang có vấn đề về sở hữu, đăng ký bản quyền đối loại hình này hoặc có sự kết hợp giữa trí tuệ nhân tạo và nhạc sỹ.
- Việc quy định về quản lý các nhóm nhạc ảo như thế nào vì trên thực tế “họ” cũng có sức ảnh hưởng khá lớn, trong khi chủ quản là các công ty công nghệ chứ không phải là công ty giải trí.
3.1.5. Đối với lĩnh vực quảng cáo
 - Hoạt động quảng cáo trên các nền tảng xã hội chưa được quản lý, chưa được quy định cụ thể, vì thế trong thời gian tới việc bổ sung các quy định này vào Luật Quảng cáo là tất yếu nhưng theo phương hướng nào thì cần phải tiếp tục đánh giá.
- Hoạt động quảng cáo thông qua công nghệ ánh sáng trên các tòa nhà, khu chung cư cần được quản lý như thế nào trong thời gian tới.
3.2. Phương hướng trong điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa
Trên cơ sở thực trạng hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình, bối cảnh và sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với các vấn đề đặt ra nêu trên thì việc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình cần phải bám sát các định hướng cơ bản như sau:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình phải điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội mới phát sinh do tác động của cuộc cách mạng 4.0;
Thứ hai, hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình phải có quy định về số hóa quy trình quản lý, cấp phép, thực hiện các thủ tục hành chính trong từng lĩnh vực;
Thứ ba, hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình phải quy định đầy đủ về kiểm duyệt nội dung về văn hóa trên không gian mạng.
Lê Thanh Liêm
Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa giai đoạn hiện nay, Hoàng Tuấn Anh, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, năm 2015.
2. Nhìn lại 30 năm cải cách thể chế văn hóa và điều chỉnh chính sách phát triển văn hóa của Trung Quốc, Nguyễn Thị Thu Phương, Chử Bích Thu, Nxb. Chính trị - Sự thật, năm 2010.
3. Xây dựng thể chế văn hóa phù hợp với thực tế cuộc sống, Hồ Việt Hà, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, năm 2012.
4. Thể chế - cải cách thể chế và phát triển - Lí luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam, Đinh Văn Ân, Võ Chí Thành, Nxb. Thống kê, năm 2002.
5. Cải cách thể chế văn hóa, Tập I, Khang Thức Chiêu (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, 1996.
6. Cải cách thể chế văn hóa, Tập II, Khang Thức Chiêu (chủ biên), Nxb.  Chính trị quốc gia, 1996.
7. Một số vấn đề về thể chế văn hóa, Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam, Nguyễn Khoa Điềm, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
8. Thể chế, thiết chế, cơ chế phát triển văn hóa - Thực trạng và giải pháp, Hồ Việt Hà, Đề tài cấp Bộ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hà Nội, 2013.
9. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
10. “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tác động đến Việt Nam”, TS. Nguyễn Thắng, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Cổng Thông tin điện tử Học viện Cảnh sát nhân dân, 24/9/2019.
11. Báo cáo Đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 (2003) - Nghiên cứu của Ban chỉ đạo liên ngành Ban chỉ đạo liên ngành do Bộ Tư pháp chủ trì.
12. Nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2030, Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Sự thật (02/2018) - TS. Nguyễn Văn Cương và các cộng sự.
13. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật (5/2018) - GS. TSKH Đào Trí Úc, PGS. TS. Trương Thị Hồng Hà và các cộng sự.
14. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
15. Kỷ yếu Hội thảo: “Đánh giá tình hình nghiên cứu và xác định nhu cầu nghiên cứu tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với hệ thống pháp luật” - Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (tổ chức tháng 5/2018).
16. Kỷ yếu Hội thảo: “Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào lĩnh vực thư viện” - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (tổ chức tháng 7/2019).
17. Kỷ yếu Hội thảo: “Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm” - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (tổ chức tháng 7/2019).
18. Kỷ yếu Hội thảo: “Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào lĩnh vực điện ảnh” - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (tổ chức tháng 9/2019).
19. Kỷ yếu Hội thảo: “Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn” - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (tổ chức tháng 9/2019).