Các hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013
(05/11/2015)
Theo quan điểm của pháp luật La Mã được thể hiện trong luật dân sự một số quốc gia Châu Âu thì quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Với những lợi ích đem lại từ việc sử dụng tài sản đã làm cho quyền sử dụng trở thành đối tượng của giao dịch, trong đó có góp vốn. Cũng như các tài sản khác, chủ sở hữu đất đai có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà chuyển giao cho các chủ thể khác thông qua giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ). Mặc dù, đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng việc thực thi một số quyền của chủ sở hữu lại thuộc về người sử dụng đất (NSDĐ). Với quy định của pháp luật hiện nay cho thấy, quyền của NSDĐ ở nước ta đã tiệm cận đến quyền sở hữu đất đai. QSDĐ không chỉ là quyền sử dụng đất đai, mà còn là quyền sở hữu một loại tài sản đặc biệt. Chính vì thế, NSDĐ có thể góp vốn trên phương diện quyền sử dụng đất đai và trên phương diện quyền sở hữu tài sản. Do đó, góp vốn bằng QSDĐ vừa có đặc trưng của hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng tài sản, vừa có đặc trưng của hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản. Với cách tiếp cận này, pháp luật Việt Nam ghi nhận hai hình thức góp vốn là góp vốn chuyển QSDĐ và góp vốn không chuyển QSDĐ.