Thi hành pháp luật
Sign In
Luật Lý lịch tư pháp - Một số bất cập khi áp dụng trong thực tế

(26/11/2015)

Luật Lý lịch tư pháp được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/6/2009 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Luật Lý lịch tư pháp là đạo luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền của công dân và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt Luật đã xác lập những nguyên tắc, nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, tạo cơ sở pháp lý có hiệu lực cao để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp ngày càng tăng của công dân, bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế.

Một số giải pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân về thủ tục hành chính

(25/11/2015)

Quyền tiếp cận thông tin của cá nhân đã được quy định trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, trong Công ước của Liên Hợp Quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Một trong những nội hàm của quyền tiếp cận thông tin đó là công dân có quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận thông tin liên quan đến mình. Thông tin về thủ tục hành chính cũng nằm trong nội hàm của quyền tiếp cận thông tin. Để bảo đảm cho công dân thực hiện quyền này, đòi hỏi trách nhiệm của Nhà nước phải tạo cơ chế bảo đảm thực thi trên thực tế, đó chính là việc hoàn thiện thể chế và thiết chế thực hiện.

Các hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013

(05/11/2015)

Theo quan điểm của pháp luật La Mã được thể hiện trong luật dân sự một số quốc gia Châu Âu thì quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Với những lợi ích đem lại từ việc sử dụng tài sản đã làm cho quyền sử dụng trở thành đối tượng của giao dịch, trong đó có góp vốn. Cũng như các tài sản khác, chủ sở hữu đất đai có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất mà chuyển giao cho các chủ thể khác thông qua giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ). Mặc dù, đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng việc thực thi một số quyền của chủ sở hữu lại thuộc về người sử dụng đất (NSDĐ). Với quy định của pháp luật hiện nay cho thấy, quyền của NSDĐ ở nước ta đã tiệm cận đến quyền sở hữu đất đai. QSDĐ không chỉ là quyền sử dụng đất đai, mà còn là quyền sở hữu một loại tài sản đặc biệt. Chính vì thế, NSDĐ có thể góp vốn trên phương diện quyền sử dụng đất đai và trên phương diện quyền sở hữu tài sản. Do đó, góp vốn bằng QSDĐ vừa có đặc trưng của hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng tài sản, vừa có đặc trưng của hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản. Với cách tiếp cận này, pháp luật Việt Nam ghi nhận hai hình thức góp vốn là góp vốn chuyển QSDĐ và góp vốn không chuyển QSDĐ.

Quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam

(30/10/2015)

Điều 102 khoản 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Vậy quyền tư pháp ở Việt Nam là gì, cơ quan thực hiện quyền tư pháp, ngoài Tòa án như Hiến pháp đã quy định, còn có cơ quan nào khác? Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp trong những văn bản pháp luật liên quan và để thực thi trong cuộc sống. Bài viết đưa ra một quan điểm nghiên cứu về vấn đề này.