Vướng mắc trong công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án và kiến nghị hoàn thiện
Sign In

Vướng mắc trong công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án và kiến nghị hoàn thiện

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2020 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, góp phần giải quyết hiệu quả, nhanh chóng các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính với thủ tục đơn giản, linh hoạt, tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức của đương sự, Nhà nước và toàn xã hội. Đồng thời, hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án giúp hàn gắn rạn nứt giữa các đương sự, tạo niềm tin, phấn khởi trong nhân dân và doanh nghiệp; tác động tích cực đến việc ổn định các quan hệ xã hội tại địa phương, giữ mối quan hệ đoàn kết lối xóm; qua đó, tạo sự đồng thuận và xây dựng khối đại đoàn kết trong nhân dân phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được của công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì thực tiễn thi hành Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án ở các Tòa án địa phương đã bộc lộ những vướng mắc cần có giải pháp khắc phục.
1. Một số vướng mắc
Thứ nhất, về yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành theo quy định tại Điều 32 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án:
“1. Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu.
2. Thời hạn chuẩn bị ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là 15 ngày kể từ ngày Tòa án nhận được biên bản và tài liệu kèm theo. Trong thời hạn này, thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công xem xét ra quyết định có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu một hoặc các bên trình bày ý kiến về kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đã được ghi tại biên bản;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc ra quyết định, nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được Tòa án yêu cầu có trách nhiệm trả lời Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.
3. Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, thẩm phán phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Trường hợp có đủ điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này thì thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành;
b) Trường hợp không có đủ điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này thì thẩm phán ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và nêu rõ lý do. Thẩm phán chuyển quyết định, biên bản và tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng.
4. Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành được gửi cho các bên và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày Tòa án ra quyết định”.
Điều 33 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định về điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án như sau:
“1. Các bên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Các bên là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận, thống nhất;
3. Nội dung thỏa thuận, thống nhất của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;
4. Trường hợp các bên thuận tình ly hôn thì thỏa thuận của các bên phải có đầy đủ nội dung về việc ly hôn, việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình;
5. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải, thống nhất đối thoại của các bên liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người khác nhưng người đó không có mặt tại phiên hòa giải, đối thoại thì thỏa thuận, thống nhất chỉ được công nhận khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của họ;
6. Trường hợp các bên thỏa thuận, thống nhất được một phần tranh chấp dân sự, một phần khiếu kiện hành chính thì chỉ được công nhận khi nội dung thỏa thuận, thống nhất không liên quan đến các phần khác của tranh chấp, khiếu kiện đó”.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là, khi đương sự có yêu cầu và Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành thì yêu cầu của đương sự có được Tòa án tính thụ lý một vụ, việc dân sự hay không và đương sự có phải chịu khoản tiền lệ phí thi hành án không? Nếu đương sự phải chịu thì số tiền lệ phí là bao nhiêu? Hiện nay, vấn đề này chưa có quy định hướng dẫn. Trường hợp không tính là một vụ, việc cho Tòa án thì báo cáo thống kê như thế nào? Hiện nay, có hai quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, số án Tòa án thụ lý, giải quyết phải tính cả các yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án; quan điểm khác lại cho rằng, yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án chỉ tính cho các thẩm phán đã trực tiếp chứng kiến và ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án. Theo quan điểm của tác giả, đối với các yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án phải được tính là một việc dân sự và tại các mục của sổ thống kê và báo cáo thống kê phải được sửa đổi, bổ sung cột yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành tại Tòa án cho phù hợp. Bởi vì, nếu không tính số lượng các quyết định công nhận hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án cho Tòa án mà chỉ tính cho các thẩm phán thì khi làm báo cáo thống kê sẽ có sự mâu thuẫn giữa số án của các thẩm phán trong cùng đơn vị với số lượng án chung của cả đơn vị.
Thứ hai, về lệ phí thi hành án và chi phí hòa giải đối thoại tại Tòa án, theo quy định tại Chương IX Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14) thì đối với các vụ việc Tòa án thụ lý, giải quyết, đương sự phải chịu án phí, lệ phí Tòa án. Một khoản tiền (chi phí) mà đương sự phải chịu đối với Nhà nước để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc của mình và bảo đảm yêu cầu đó được thi hành trên thực tế (tính cưỡng chế nhà nước) gọi là án phí, lệ phí thi hành án. Như vậy, đối với các vụ, việc dân sự khi Tòa án thụ lý giải quyết thì đương sự phải chịu án phí, lệ phí Tòa án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đối với yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án thì đây là một loại việc dân sự nhưng người yêu cầu có phải chịu lệ phí hay không? Điều 9 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án chỉ quy định về chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Nghị định số 16/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ quy định chi tiết mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp, việc quản lý, sử dụng chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án và thù lao hòa giải viên tại Tòa án (Nghị định số 16/2021/NĐ-CP) thì quy định mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp và việc quản lý, sử dụng chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; thù lao hòa giải viên tại Tòa án theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 14 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Như vậy, có thể thấy, đối với lệ phí khi ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án là chưa có quy định.
Để khắc phục những bất cập này, có Tòa án địa phương đã ban hành quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành mà trong đó, căn cứ để tính lệ phí thi hành án là Luật Phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Tuy nhiên, hai văn bản này ra đời và có hiệu lực thi hành trước khi Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án có hiệu lực thi hành. Do đó, Luật Phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 không hướng dẫn áp dụng về lệ phí đối với quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án mà hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, việc căn cứ như vậy là chưa hợp lý.
Mục 9 Giải đáp số 01/2021/GĐ-TANDTC ngày 01/7/2021 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ về hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Giải đáp số 01/2021/GĐ-TANDTC) hướng dẫn: Đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch thì các bên tranh chấp phải chịu chi phí theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 16/2021/NĐ-CP, bao gồm: Chi thù lao cho hòa giải viên, chi phí hành chính phục vụ việc hòa giải (chi văn phòng phẩm, nước uống, cước phí bưu chính, viễn thông phục vụ trực tiếp việc hòa giải). Ngoài ra, các bên còn phải chịu các chi phí quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị định này, đó là: Chi phí khi các bên tham gia hòa giải, đối thoại thống nhất lựa chọn địa điểm hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở Tòa án và chi phí xem xét hiện trạng tài sản liên quan đến vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính mà tài sản đó nằm ngoài phạm vi địa giới hành chính của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc hòa giải, đối thoại có trụ sở. Đối với vụ việc hòa giải, đối thoại còn lại, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án chỉ phải chịu chi phí quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 16/2021/NĐ-CP.
Như vậy, có thể thấy, theo Điều 9 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, Nghị định số 16/2021/NĐ-CP, Giải đáp số 01/2021/GĐ-TANDTC thì không có quy định về việc thu lệ phí thi hành án khi ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.
Ngoài ra, hiện nay, chưa có các biểu mẫu hướng dẫn về biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và biểu mẫu về công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án, đơn yêu cầu hòa giải, đối thoại tại Tòa án… nên các Tòa án địa phương thường sử dụng mẫu không thống nhất và mỗi Tòa án lại soạn một kiểu mẫu khác nhau.
2. Một số kiến nghị, đề xuất
Một là, để bảo đảm việc áp dụng được thống nhất trong tất cả các Tòa án địa phương, cần ban hành hướng dẫn cụ thể trường hợp khi đương sự có yêu cầu và Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành thì yêu cầu của đương sự có được Tòa án tính thụ lý một vụ, việc dân sự không?
Hai là, khi tuyên quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án, theo tác giả, cần hướng dẫn theo hướng, tại phần quyết định cần tuyên đương sự phải chịu lệ phí dân sự như một vụ án hòa giải thành để bảo đảm tính cưỡng chế nhà nước. Đồng thời, cần sớm ban hành các biểu mẫu hướng dẫn về biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và biểu mẫu về công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án, đơn yêu cầu hòa giải, đối thoại tại Tòa án… để các Tòa án địa phương áp dụng được thống nhất.
Võ Văn Thể
Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam