Tuyến biên giới trên đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc dài khoảng 1.406 km, đi qua 07 tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, tiếp giáp với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang - Quảng Tây (Trung Quốc). Đây được xác định là địa bàn trọng điểm về tội phạm mua bán người. Theo Báo cáo tổng kết hàng năm của Cục Cảnh sát hình sự từ năm 2010 đến năm 2020, lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý 651 vụ, 1.068 đối tượng, 1.268 nạn nhân liên quan đến hoạt động mua bán người, chiếm 16,37% số vụ và 18,25% số đối tượng phạm tội mua bán người được phát hiện, xử lý trên toàn quốc.
1. Một số phương thức, thủ đoạn điển hình của tội phạm mua bán người
Hoạt động của tội phạm mua bán người trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc thường hình thành đường dây, tổ chức, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và có tính kế hoạch trước khi gây án, thực hiện và che giấu tội phạm. Đối tượng phạm tội thường sử dụng các phương thức, thủ đoạn rất tinh vi, manh động và được chia theo từng giai đoạn phạm tội, cụ thể:
Thứ nhất, giai đoạn tìm kiếm nguồn “hàng” (nạn nhân)
Các đối tượng phạm tội thường tìm đến những địa bàn có điều kiện kinh tế khó khăn để tiếp cận, dụ dỗ, lôi kéo những người đang thất nghiệp, có nhu cầu cần việc làm và hứa hẹn hỗ trợ, giúp đỡ; tiếp cận, lừa gạt những phụ nữ có hôn nhân đổ vỡ, “quá lứa nhỡ thì” đang mong muốn được kết hôn và tìm kiếm cuộc sống ổn định; tiếp cận nữ giới ở độ tuổi thanh niên thích kết bạn, giao lưu qua mạng xã hội... để lợi dụng sự thiếu hiểu biết, sự cả tin của họ nhằm thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, các đối tượng phạm tội còn tiếp cận nguồn “hàng” bằng cách tìm đến các khách sạn, vũ trường, ổ mại dâm để dụ dỗ nhân viên đang làm việc ở các cơ sở này chuyển đến làm việc tại các cơ sở khác có thu nhập cao hơn; thông qua các công ty môi giới trá hình để thu hút những người đang mong muốn tìm được việc làm thu nhập cao hoặc phụ nữ muốn lấy chồng ngoại quốc để hưởng cuộc sống an nhàn rồi đưa nạn nhân sang Trung Quốc bán. Bên cạnh đó, tại một số địa bàn giáp biên giới, chủ yếu là ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, các đối tượng còn lợi dụng tình trạng phụ nữ xuất hiện một mình ở nơi vắng người hoặc lợi dụng phong tục bắt vợ của người dân tộc Mông để thực hiện hành vi bắt cóc phụ nữ để bán qua biên giới.
Một vụ mua bán người điển hình: Đầu năm 2016, các nạn nhân là Lý Thị V. (sinh năm 1990, trú tại thôn Nậm Sò, xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai); Đặng Thị Đ. (sinh năm 1997, trú tại thôn Thải Giàng) và Lý Thị S. (sinh năm 1994, trú tại thôn Nậm Kha 1, cùng xã Nậm Lúc, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai) kết bạn, làm quen qua mạng xã hội zalo với một người tên là Minh, sau đó, người này tìm cách dụ dỗ, rủ các nạn nhân sang Trung Quốc chơi và bán vào các động mại dâm. Sau khi nạn nhân Lý Thị V. trốn được về Việt Nam đã đến cơ quan công an trình báo, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Lào Cai đã điều tra làm rõ đối tượng cầm đầu đường dây là Lý Văn Minh (sinh năm 1982, trú tại thôn Ná Lùng, xã Cốc Mỳ, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai) và đối tượng tham gia là Bàn Văn Quyền (sinh năm 1994, trú tại thôn 3 Vài Siêu, xã Thượng Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) (theo Báo cáo sơ kết của Công an tỉnh Lào Cai về tiếp nhận nạn nhân mua bán người, tháng 10/2017).
Thứ hai, quá trình vận chuyển nạn nhân
Qua khảo sát cho thấy, 100% các vụ án mua bán người trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc là mua bán người qua biên giới sang Trung Quốc. Các thủ đoạn vận chuyển nạn nhân của các đối tượng phạm tội trong các vụ án này như sau:
- Bí mật đưa nạn nhân vượt biên sang Trung Quốc để giao nhận qua đường mòn, đường tiểu ngạch hoặc lợi dụng sơ hở của lực lượng tuần tra kiểm soát biên giới để đưa nạn nhân vượt biên đến điểm hẹn với đối tượng bên kia biên giới, sau đó, dùng phương tiện có sẵn vận chuyển nạn nhân vào sâu trong nội địa Trung Quốc để giao nhận.
- Hướng dẫn nạn nhân bí mật tự vượt biên đến điểm hẹn (đối với nạn nhân là người ở khu vực gần biên giới, thông thuộc địa bàn, đường biên), đối tượng phạm tội sẽ đón ở điểm hẹn ở bên kia biên giới, sau khi đón được nạn nhân, đối tượng này sẽ đưa vào sâu trong nội địa để giao nhận.
Điển hình như năm 2015, nhóm đối tượng Cư Seo Quang (sinh năm 1986), Thào Seo Chúng (sinh năm 1990) và Sùng Seo Vảng (sinh năm 1990) cùng trú tại huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai lừa bán nạn nhân Lù Thị M. (sinh năm 1996) và Giàng Thị Nh. (sinh năm 1997), cùng trú tại xã La Pán Tẩn, huyện Mường Khương. Sau khi tiếp cận, chiếm được lòng tin, tình cảm của hai nạn nhân, các đối tượng rủ nạn nhân sang Trung Quốc đi chơi chợ và mua đồ. Với sự hướng dẫn của các đối tượng, M. và Nh. vượt biên qua mốc 10 xã Bản Lầu rồi được các đối tượng đón ở bên kia biên giới, sau đó đưa vào nội địa Trung Quốc bán cho Lý Khắc Minh là chủ động mại dâm lấy 13.000 Nhân dân tệ/người (theo Báo cáo cáo sơ kết chuyên án mua bán người của Công an tỉnh Lào Cai, tháng 12/2015).
- Hướng dẫn nạn nhân làm các thủ tục xuất cảnh hợp pháp (nạn nhân đồng ý xuất cảnh với các lý do như kết hôn, xuất khẩu lao động trá hình, thăm thân bên kia biên giới, du lịch…), các đối tượng sẽ hướng dẫn nạn nhân hoàn thiện các giấy tờ, thủ tục để xuất cảnh qua các cửa khẩu. Sau khi nạn nhân nhập cảnh vào Trung Quốc, các đối tượng sẽ đón tại các điểm hẹn trước và thực hiện việc giao nhận ngay hoặc đưa đến các điểm giao nhận.
Thứ ba, chuyển giao, tiếp nhận nạn nhân
Trong quá trình chuyển giao và tiếp nhận nạn nhân, việc chuyển giao tiền - “hàng” có thể đồng thời hoặc không và diễn ra nhanh gọn. 100% các vụ việc giao nhận người diễn ra trên địa phận Trung Quốc tại các điểm bí mật, tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng.
Thứ tư, quá trình chứa chấp, bóc lột nạn nhân
Nạn nhân bị mua bán tại các tỉnh biên giới phía Bắc sang Trung Quốc chủ yếu bị đưa vào các cơ sở hoạt động về mại dâm, làm vợ và sinh con bất hợp pháp, làm ô sin, lao động nặng nhọc trong các công trường, hầm mỏ..., hoặc nhằm mục đích lấy nội tạng. Để khai thác, bóc lột nạn nhân, buộc nạn nhân phải thực hiện theo yêu cầu của các đối tượng mua người, các thủ đoạn thường được các đối tượng sử dụng như sau: Tạo sự lệ thuộc của nạn nhân để khai thác, bóc lột như thu giữ hết giấy tờ tùy thân, tiền của nạn nhân, cho nạn nhân sử dụng ma túy hoặc các chất gây nghiện; đe dọa, khủng bố tinh thần, đánh đập nạn nhân, buộc nạn nhân phải thực hiện theo yêu cầu của các đối tượng phạm tội; tổ chức quản lý, giam giữ, canh gác, theo dõi không để nạn nhân trốn; lừa gạt nạn nhân như hứa hẹn sẽ trả nhiều tiền cho nạn nhân, vẽ ra một viễn cảnh về cuộc sống tốt đẹp hơn... Các nạn nhân chủ yếu là số nhân viên đã làm việc tại các nhà hàng, quán bar, cơ sở tẩm quất, massage, gái bán dâm trước đây, nay bị bán vào các cơ sở hoạt động mại dâm.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm mua bán người trong thời gian tới
Để nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm mua bán người trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc trong thời gian tới, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống tội phạm mua bán người ở Việt Nam trong tình hình mới. Trong những năm vừa qua, pháp luật nhằm điều chỉnh các hành vi có liên quan đến mua bán người đã và đang từng bước được hoàn thiện góp phần tích cực trong việc răn đe, phòng ngừa và trấn áp tội phạm mua bán người. Tuy nhiên, để phòng ngừa, trấn áp loại tội phạm này trong tương lai, đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu hoàn thiện hơn nữa cơ sở pháp lý theo hướng:
- Sửa đổi pháp luật hình sự nói chung và Luật Phòng, chống mua bán người nói riêng cho tương thích với pháp luật quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người như: Sửa đổi thuật ngữ “mua bán người” thành thuật ngữ “buôn bán người”…
- Nghiên cứu ban hành thông tư hướng dẫn thống nhất Điều 150 và Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để các địa phương dễ dàng áp dụng trong việc xác định hành vi phạm tội và nạn nhân của tội phạm mua bán người. Theo định nghĩa về “buôn bán người” quy định tại Điều 3 Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước về phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên Hợp Quốc, thì chỉ cần có một trong các hành vi vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích bóc lột sẽ cấu thành tội buôn bán người. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 150 và Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), để cấu thành tội “mua bán người”, “mua bán người dưới 16 tuổi” cần phải có hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người; việc tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người chỉ cấu thành tội “mua bán người”, “mua bán người dưới 16 tuổi” nếu như nhằm thực hiện các hành vi chuyển giao hoặc tiếp nhận người. Như vậy, khái niệm “mua bán người” theo quy định của pháp luật Việt Nam và “buôn bán người” theo Nghị định thư nêu trên còn khác biệt, dẫn đến khó khăn trong việc xác định nạn nhân trong các vụ án.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật trong việc hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân trong các vụ án mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em: Xây dựng hướng dẫn và sửa đổi các quy định pháp luật liên quan đến hướng miễn trừ trách nhiệm hành chính cho nạn nhân bị mua bán trong một số trường hợp như bán dâm, xuất nhập cảnh trái phép...; quy định cụ thể về việc bồi thường cho các nạn nhân đối với hành vi mua bán người.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế, chính sách để củng cố, phát triển, cải thiện chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước trong công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, bảo đảm tính sẵn có, dễ tiếp cận; đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ hỗ trợ nạn nhân và thí điểm các mô hình hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tội phạm mua bán người để nhân dân hiểu rõ hơn về các phương thức, thủ đoạn của bọn tội phạm, đặc biệt chủ động phòng ngừa, cảnh giác trước các thủ đoạn của bọn tội phạm mua bán người. Đây được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong phòng ngừa tội phạm nói chung, phòng, chống tội phạm mua bán người nói riêng.
Thứ ba, phòng ngừa tội phạm mua bán người phải gắn liền với các biện pháp kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, trong đó xác định biện pháp kinh tế là cơ bản và trọng tâm. Phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho quần chúng nhân dân, góp phần ổn định xã hội… là gốc của mọi vấn đề, trong đó có việc giải quyết các vấn đề tội phạm mua bán người. Đây là biện pháp có ý nghĩa chiến lược nhằm chủ động phòng ngừa và xóa bỏ các nguyên nhân, điều kiện là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm.
Thứ tư, cần nâng cao hiệu quả thực hiện các công tác sưu tra, xác minh hiềm nghi, đấu tranh chuyên án, xây dựng và sử dụng mạng lưới cộng tác viên bí mật. Phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng cảnh sát hình sự các cấp, giữa lực lượng cảnh sát hình sự với các lực lượng khác trong Ngành Công an để trao đổi thông tin, nắm được tình hình hoạt động của tội phạm mua bán người; quản lý chặt chẽ các đối tượng có tiền án, tiền sự hoặc nghi vấn về hành vi lừa gạt người…
Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả các biện pháp quản lý nhà nước về an ninh, trật tự như: Quản lý đăng ký hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng, quản lý chặt chẽ các ngành nghề kinh doanh có điều kiện; kiểm tra phương tiện giao thông… Trong đó, tập trung vào các địa bàn trọng điểm, phức tạp, kịp thời khắc phục những sơ hở là điều kiện mà tội phạm mua bán người thường lợi dụng để thực hiện hành vi.
Ngoài ra, nghiên cứu đổi mới và cải tiến công tác xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý người nước ngoài ra vào Việt Nam, hoạt động của văn phòng đại diện của người nước ngoài tại Việt Nam có liên quan để kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi mua bán người dưới mọi hình thức do người nước ngoài hoặc người Việt Nam thực hiện.
Thứ năm, tổ chức tốt công tác tiếp nhận và hỗ trợ các nạn nhân, giúp đỡ họ tái hòa nhập với cộng đồng. Những người bị mua bán vì bất kỳ lý do gì đều là nạn nhân của sự bóc lột và nô lệ. Vì vậy, cần phải thực hiện theo phương châm phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, cộng đồng và chính bản thân nạn nhân để giúp các nạn nhân giải quyết các vướng mắc trong cuộc sống gia đình hay giúp đỡ con cái của họ được bình đẳng như các trẻ em khác.
ThS. Đỗ Xuân Mười
Học viện Cảnh sát nhân dân