Tóm tắt: Nghị quyết số 172/NQ-CP ngày 19/11/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động công chứng của nước ta. Thông qua bài viết, nhóm tác giả đưa ra một vài phân tích, luận giải về một số nội dung của Nghị quyết này cần quan tâm khi triển khai thực hiện.
Abstract: Resolution No. 172/NQ-CP dated November 19, 2020 of the Government on the policy of developing the notary profession marked an important step forward in the process of building and completing the legal basis for notary activities in our country. Through the article, the authors give some analysis and commentary on some of the contents of this Resolution that need attention when implementing.
Ngày 19/11/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 172/NQ-CP về chính sách phát triển nghề công chứng (Nghị quyết số 172/NQ-CP). Đây là một dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng, hình thành và phát triển nghề công chứng tại nước ta kể từ khi hoạt động bổ trợ tư pháp chính thức được tái lập vào năm 1987, đánh dấu bằng sự ra đời của Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công chứng Nhà nước.
Nội dung Nghị quyết số 172/NQ-CP ngoại trừ phần dẫn đề, được kết cấu gồm 03 phần chính là: (i) Mục tiêu, định hướng phát triển nghề công chứng; (ii) Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu; (iii) Tổ chức thực hiện.
Với góc nhìn của một công chứng viên, nhóm tác giả quan tâm đến 02 nhiệm vụ, giải pháp được ghi nhận tại Phần II Nghị quyết số 172/NQ-CP, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần phải xác định rõ bản chất pháp lý của hoạt động công khi so sánh với các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, nhất là trong bối cảnh quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã bị bãi bỏ[1]. Khoản 1 Điều 18 Luật Công chứng năm 2014 nêu rõ “việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải tuân theo quy định của Luật này”, trong khi “văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh. Văn phòng công chứng phải có từ 02 công chứng viên hợp danh trở lên. Văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn” (khoản 1 Điều 22 Luật Công chứng năm 2014). Cách thức quy định kể trên khiến cho nhiều cá nhân, cơ quan có liên quan cho rằng tổ chức hành nghề công chứng nói chung, văn phòng công chứng nói riêng là một doanh nghiệp, được thành lập và hoạt động theo các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh là Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Đầu tư năm 2020… không có vấn đề gì khi áp dụng các quy định của Luật Công chứng năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020 trong quá trình thành lập, vận hành một văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo mô hình công ty hợp danh, bởi lẽ vấn đề này đã được pháp luật thực định xác định một cách rõ ràng. Minh chứng cho nhận định vừa nêu, Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Trường hợp luật khác có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của luật đó” khi đưa ra cách thức áp dụng Luật Doanh nghiệp và luật khác. Tuy nhiên, khi vận dụng những quy định còn có những cách hiểu không giống nhau giữa Luật Công chứng năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2020. Nhìn một cách tổng thể, hiện nay công chứng đang được coi là một ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, cụ thể, khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư năm 2020 khẳng định: “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”, trong khi “hành nghề công chứng” được ghi nhận tại số thứ tự 13 Phụ lục IV Luật Đầu tư năm 2020 ấn định “Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện”. Khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư năm 2020, các nhà làm luật cũng nêu rõ “trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh hoặc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư. Quy định về tên ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong các luật khác phải thống nhất với Điều 6 và các Phụ lục của Luật Đầu tư”. Đến đây, có thể khẳng định rằng, về mặt nguyên tắc, quy định của Luật Đầu tư năm 2020 sẽ được ưu tiên áp dụng khi có sự không tương thích trong tương quan so sánh với nội dung của Luật Công chứng năm 2014.
Thứ hai, thiết lập cơ sở dữ liệu, xác định cơ chế phối hợp, chia sẻ cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan có liên quan đến hoạt động công chứng. Xây dựng Chính phủ điện tử, giảm thiểu thủ tục hành chính là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Ý thức được tầm quan trọng của thông tin trong hoạt động công chứng, Điều 62 Luật Công chứng năm 2014 quy định về “cơ sở dữ liệu công chứng”, đồng thời khoản 4 Điều 32 và khoản 10 Điều 33 Luật Công chứng năm 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng trong việc khai thác và chia sẻ thông tin từ dữ liệu trong hoạt động công chứng. Bên cạnh đó, sau khi tìm hiểu nội dung những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh một số lĩnh vực có liên quan chặt chẽ đến hoạt động công chứng, nhóm tác giả nhận thấy vấn đề xây dựng cơ sở dữ liệu, bao gồm cả cơ sở dữ liệu điện tử cũng đã được đặt ra, cụ thể:
- Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/1/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai (Nghị định số 01/2017/NĐ-CP), Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT ngày 27/01/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết Nghị định số 01/2017/NĐ-CP và sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư hướng dẫn thi hành Luật Đất đai (Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT) và Thông tư số 53/2017/TT-BTNMT ngày 04/12/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định ngưng hiệu lực thi hành khoản 5 Điều 6 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT... đều đề cập đến hệ thống thông tin đất đai, đồng thời xác định trách nhiệm xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
- Luật Nhà ở năm 2014, Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở (Nghị định số 99/2015/NĐ-CP), đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 30/2019/NĐ-CP ngày 28/3/2019 và Nghị định số 30/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ, Thông tư số 19/2016/TT-BXD ngày 30/6/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Luật Nhà ở và Nghị định số 99/2015/NĐ-CP… Tại khoản 6 Điều 167 Luật Nhà ở năm 2014 quy định nội dung quản lý nhà nước về nhà ở bao gồm cả việc “điều tra, thống kê, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về nhà ở, quản lý, vận hành, khai thác và cung cấp cơ sở dữ liệu, thông tin về nhà ở” và quy định rõ trách nhiệm của Bộ Xây dựng được ghi nhận tại khoản 5 Điều 175 Luật Nhà ở năm 2014.
- Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, Nghị định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản, Nghị định số 117/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ về xây dựng, quản lý và sử dụng hệ thống thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản, Thông tư số 11/2015/TT-BXD ngày 30/12/2015 của Bộ Xây dựng quy định việc cấp chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản; hướng dẫn việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức hành nghề môi giới bất động sản, điều hành sàn giao dịch bất động sản; việc thành lập và tổ chức hoạt động của sàn giao dịch bất động sản… Tại điểm đ khoản 2 Điều 77 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 khẳng định Bộ Xây dựng có nhiệm vụ xây dựng và quản lý vận hành hệ thống thông tin quốc gia về thị trường bất động sản; xây dựng và công bố các chỉ số đánh giá thị trường bất động sản trên phạm vi cả nước, trong khi xây dựng hệ thống thông tin về thị trường bất động sản, xây dựng và công bố các chỉ số đánh giá thị trường bất động sản trên phạm vi địa bàn thuộc về trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (khoản 5 Điều 78 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014).
- Luật Căn cước công dân năm 2014, Nghị định số 137/2015/NĐ-CP ngày 31/12/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân (Nghị định số 137/2015/NĐ-CP), Nghị định số 37/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 137/2015/NĐ-CP, Thông tư số 07/2016/TT-BCA ngày 01/02/2016 của Bộ Công an quy định chi tiết một số điều của Luật Căn cước công dân và Nghị định số 137/2015/NĐ-CP (Thông tư số 07/2016/TT-BCA), Thông tư số 40/2019/TT-BCA ngày 01/10/2019 của Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 07/2016/TT-BCA…; Luật Cư trú năm 2020, Thông tư số 55/2021/TT-BCA ngày 15/05/2021 của Bộ Công an quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú… đã xác định và xây dựng đầy đủ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu căn cước công dân, cơ sở dữ liệu về cứ trú…
- Luật Hộ tịch năm 2014, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Nghị định số 123/2015/NĐ-CP), Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP… khoản 2, khoản 4 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014 xác định và phân biệt cụ thể cơ sở dữ liệu hộ tịch và cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.
- Luật Doanh nghiệp năm 2020, Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, Nghị định số 47/2021/NĐ-CP ngày 01/04/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp, Thông tư số 01/2021/TT-BKHĐT ngày 16/3/2021 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp… Tại khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 nêu rõ “cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là cổng thông tin điện tử được sử dụng để đăng ký doanh nghiệp qua mạng thông tin điện tử, công bố thông tin về đăng ký doanh nghiệp và truy cập thông tin về đăng ký doanh nghiệp”, trong khi khoản 9 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định “cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là tập hợp dữ liệu về đăng ký doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc”.
- Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm (Nghị định số 102/2017/NĐ-CP), Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 20/6/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp bảo đảm tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp... tại khoản 3, khoản 4 Điều 3 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP quy định rõ “cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm” và “hệ thống dữ liệu quốc gia về biện pháp bảo đảm”.
Từ nội dung những quy định kể trên, nhóm tác giả xin đưa ra một vài nhận xét như sau:
- Không chỉ xuất hiện trong lĩnh vực công chứng, vấn đề xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu, bao gồm cả cơ sở dữ liệu điện tử còn được quy định tại rất nhiều lĩnh vực khác có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động công chứng;
- Trong những cơ sở dữ liệu như đã liệt kê ở trên, có một số cơ sở dữ liệu thuộc “Danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử” được ban hành kèm theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/05/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục cơ sở dữ liệu quốc gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử;
- Nhìn một cách khái quát nhất, tất cả những lĩnh vực có quan hệ mật thiết đến hoạt động công chứng như: Đất đai, nhà ở, kinh doanh bất động sản, doanh nghiệp, căn cước công dân, hộ tịch, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ… đều đã triển khai việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu, bao gồm cả cơ sở dữ liệu điện tử;
- Không chỉ để sử dụng vào công tác quản lý nhà nước mà còn hướng đến phục vụ cá nhân, tổ chức khi xác lập, thực hiện giao dịch cũng như cơ chế chia sẻ thông tin trong cơ sở dữ liệu… đã được một số văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận;
- Trong những cơ sở dữ liệu được liệt kê ở phần trên, nhóm tác giả thấy có những cơ sở dữ liệu được xây dựng, kết nối trên phạm vi toàn quốc nhưng bên cạnh đó, cũng có những cơ sở dữ liệu lại chỉ được xây dựng, kết nối trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Như vậy, dưới cái nhìn của một công chứng viên, người viết cho rằng ở thời điểm hiện tại, chúng ta đã bắt đầu xây dựng, hoàn thiện một hệ thống các cơ sở dữ liệu, bao gồm cả cơ sở dữ liệu điện tử tương đối toàn diện trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động công chứng. Chính vì vậy, để những cơ sở dữ liệu này phát huy được vai trò trong thực tế cuộc sống, điểm mấu chốt ở đây chính là cơ chế chia sẻ dữ liệu giữa những cá nhân, tổ chức hữu quan. Tìm hiểu nội dung một số đạo luật có liên quan như: Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016… cũng như các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật như: Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin, Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23/01/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Tiếp cận thông tin, Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 của Chính phủ quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, Nghị định số 130/2018/NĐ-CP ngày 27/9/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số… và nhất là quy định tại Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước (Nghị định số 47/2020/NĐ-CP), nhóm tác giả thấy cơ chế chia sẻ, tiếp cận thông tin, bao gồm cả trên môi trường mạng đã được pháp luật thực định ghi nhận. Mặc dù, phạm vi chia sẻ thông tin theo quy định của pháp luật hiện hành hiện còn chưa thống nhất và đối tượng được chia sẻ thường bị bó hẹp. Đơn cử, khi xác định “phạm vi điều chỉnh”, Điều 1 Nghị định số 47/2020/NĐ-CP nêu rõ “1. Nghị định này quy định về các hoạt động quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước, bao gồm: Quản lý, quản trị dữ liệu số; kết nối, chia sẻ dữ liệu số; sử dụng, khai thác dữ liệu số của cơ quan nhà nước; cung cấp dữ liệu mở của cơ quan nhà nước cho tổ chức, cá nhân; quyền và trách nhiệm trong kết nối, chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước.
2. Nghị định này không áp dụng đối với việc chia sẻ dữ liệu số chứa thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước được quy định tại Luật Bảo vệ bí mật nhà nước. Việc chia sẻ dữ liệu số chứa thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành”. Tuy nhiên, để các cơ sở dữ liệu thật sự phát huy tối đa được vai trò của mình, mang lại lợi ích cho toàn thể cộng đồng, việc kết nối và kèm theo đó là chia sẻ dữ liệu là yêu cầu mang tính tiên quyết. Chính vì vậy, theo nhận định của nhóm tác giả, trong thời gian tới, việc thiết kế cơ chế liên thông, chia sẻ dữ liệu của hoạt động công chứng nói riêng cũng như các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động công chứng nói chung là điều cần thiết. Tất nhiên, cơ chế liên thông, chia sẻ dữ liệu này phải đáp ứng được các yêu cầu bảo mật có liên quan (nếu có yêu cầu). Điều này không những giúp cho cá nhân, tổ chức giảm thiểu việc sử dụng tài liệu dưới định dạng bằng văn bản và từ đó tiết kiệm được thời gian cũng như chi phí thực hiện các thủ tục liên quan đến hoạt động công chứng. Không những thế, việc chia sẻ dữ liệu trên môi trường điện tử cũng sẽ là công cụ hữu hiệu để kìm chế và tiến tới loại bỏ vấn nạn sử dụng giấy tờ, tài liệu giả đang có xu hướng ngày càng gia tăng trong đời sống kinh tế - xã hội. Và trong tương lai xa hơn, chia sẻ, liên thông dữ liệu trên môi trường điện tử cũng là bước đi cần thiết để chúng ta tiến tới thực hiện công chứng điện tử tại Việt Nam, phù hợp với xu thế xây dựng Chính phủ điện tử nói riêng và bắt nhịp cùng Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nói chung, tạo điều kiện cần thiết để cá nhân, tổ chức có thể thực hiện được nội dung quy định đối với “giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản” ( Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Tóm lại, Nghị quyết số 172/NQ-CP ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động công chứng của nước ta trong thời gian tới. Có thể khẳng định rằng, nội dung của Nghị quyết này không những xác định được mục tiêu, định hướng cơ bản cho sự phát triển của hoạt động công chứng trong tương lai, mà còn đưa ra được các nhiệm vụ, nhóm giải pháp cụ thể mà mỗi cá nhân, tổ chức hữu quan cần phải triển khai để đạt được mục tiêu đã định. Dưới cái nhìn của một công chứng viên, nhóm tác giả đã đưa ra một vài luận giải xoay quanh 02 vấn đề quan trọng trong nội dung Nghị quyết số 172/NQ-CP kể trên. Vấn đề thứ nhất là xác định chính xác bản chất pháp lý của hoạt động công chứng trong tương quan so sánh với các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Vấn đề thứ hai là thiết lập cơ sở dữ liệu cũng như xác định cơ chế phối hợp, chia sẻ cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan có liên quan đến hoạt động công chứng. Chỉ khi nào giải quyết, thống nhất được 02 nội dung mang tính nền tảng như đã trình bày ở trên, chúng ta mới có được một cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng, phát triển hoạt động công chứng theo đúng mục tiêu, định hướng đã đề ra, phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Tuấn Đạo Thanh
Phòng Công chứng số 1, Thành phố Hà Nội
Phạm Thu Hằng
Văn phòng Công chứng Phạm Thu Hằng
[1]. Để phù hợp với Luật Quy hoạch năm 2017 và bảo đảm đúng với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng., ngày 15/6/2018, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019. Điều 2 của Luật này sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công chứng năm 2014 đã bãi bỏ các quy định có liên quan đến Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020.