Pháp luật kinh tế
Sign In
Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và một số kiến nghị hoàn thiện

(20/12/2013)

Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa là chế định quan trọng của Luật Thương mại và là một trong bốn hoạt động trung gian thương mại được quy định trong Chương 5 Luật Thương mại. Ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện công việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác (Điều 155).
Ủy thác mua bán hàng hóa có lịch sử hình thành khá sớm, khởi nguồn là uỷ thác trong thương mại hàng hải. Khoảng thế kỷ XIII, do nhu cầu của việc mở rộng quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của thương nhân từ nước này sang nước khác qua đường biển, thương nhân thay vì theo hàng hoá giao tại cảng đến, họ uỷ thác cho các thương nhân khác thực hiện công việc đó thay mình và trả thù lao.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, uỷ thác khẳng định vai trò và ý nghĩa của nó chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay, uỷ thác được tìm thấy trong nhiều lĩnh vực thương mại và là giải pháp lý tưởng cho các thương nhân không muốn mất chi phí vào việc mua bán hàng hoá hay đầu tư mà không đem lại hiệu quả.
Như vậy, uỷ thác đặt ra khi một người hay một tổ chức, pháp nhân không có đủ điều kiện cần thiết (năng lực pháp lý, khả năng tài chính, nguồn nhân lực...) để thực hiện một số hoạt động thương mại - họ cần một thương nhân có năng lực thực tế, sự chuyên nghiệp và hiệu quả để thay họ làm việc đó.
Với 11 điều (từ Điều 155 đến Điều 165), các quy định pháp luật về hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa có thể coi là hành lang pháp lý cần thiết cho các giao dịch ủy thác mua bán hàng hóa được đảm bảo thực hiện trong thực tiễn. Tuy nhiên, chế định này chưa được quy định tương xứng với vị trí, vai trò của nó và đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh, khi được thực hiện nó bộc lộ nhiều hạn chế như: Mâu thuẫn giữa quy định của Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự, phạm vi ủy thác giới hạn, thiếu nhiều quy định cần thiết liên quan đến phân chia lợi nhuận chênh lệch phát sinh từ hoạt động ủy thác hay xử lý hàng hoá uỷ thác không được tiếp nhận... Quá trình nghiên cứu, khảo sát các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam từ năm 2005 đến 2009 cho thấy, có nhiều tranh chấp về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trong đó có nguyên nhân từ những hạn chế này(1). Những bất cập của pháp luật thực định và thực trạng thực thi pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cho thấy, sự đòi hỏi khách quan phải hoàn thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam trong tính toàn diện và đa chiều, trong đó có pháp luật thực định. Hướng đến hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau đây:
 

Pháp luật thế giới về phạm vi chủ thể trong trách nhiệm sản phẩm

(31/10/2013)

Trách nhiệm sản phẩm là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng. Nó xuất phát trước tiên từ nghĩa vụ đương nhiên của người bán trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm bán ra cho người mua và trách nhiệm phát sinh khi không thực hiện đúng nghĩa vụ này. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, khi người sản xuất không đồng thời đóng vai trò là người bán, trực tiếp thực hiện việc bán hàng cho người sử dụng và xuất hiện những khâu trung gian thực hiện hoạt động thương mại, loại trách nhiệm này dần tách khỏi nghĩa vụ hợp đồng và có những nội dung đặc thù riêng. Pháp luật đa số các nước trên thế giới đều gọi chung loại trách nhiệm này theo một thuật ngữ, đó là “trách nhiệm sản phẩm”. Có thể nhận thấy rằng, xung quanh khái niệm này, xuất hiện nhiều khái niệm liên quan cũng như những vấn đề khác mà pháp luật Việt Nam còn quy định sơ sài, bất cập. Chẳng hạn như nguyên lý xác định trách nhiệm, khái niệm trách nhiệm sản phẩm, phạm vi sản phẩm trong trách nhiệm sản phẩm, hàng hóa, hàng hóa khuyết tật, mức độ an toàn hợp lý, người tiêu dùng, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường, chủ thể yêu cầu trách nhiệm sản phẩm, thời hiệu yêu cầu trách nhiệm bồi thường, các trường hợp miễn, giảm trách nhiệm bồi thường… Phân tích các quy định hiện hành cho thấy, việc xác định trách nhiệm bồi thường của nhà sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ có khuyết tật gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam chưa có một cơ sở lý luận chung về vấn đề này. Các văn bản mới chỉ quy định sơ khai về trách nhiệm sản phẩm chứ chưa tạo ra một chế định pháp luật rõ ràng và còn rất ít những quy định giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh khi áp dụng trách nhiệm sản phẩm đối với nhà sản xuất để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Chính việc thiếu vắng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh đã làm cho pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng giảm đi mức độ ràng buộc về trách nhiệm của doanh nghiệp trong mối quan hệ với xã hội, với người tiêu dùng, giảm tính hiệu quả của cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng. Do vậy, có thể nói rằng, người tiêu dùng Việt Nam đang phải sống trong một môi trường tiêu dùng không an toàn, quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm nghiêm trọng. Thực trạng này đòi hỏi các nhà lập pháp Việt Nam phải xây dựng một cơ chế pháp lý đầy đủ và hoàn thiện hơn nữa nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trình bày những quy định pháp luật các nước trên thế giới về phạm vi chủ thể chịu trách nhiệm sản phẩm và phạm vi chủ thể yêu cầu trách nhiệm sản phẩm, từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Hoạt động đấu giá - Góc nhìn so sánh pháp luật thương mại và pháp luật dân sự

(03/07/2013)

Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó, người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất(1). Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng, khác với phương thức mua bán thông thường, người bán và người mua cùng nhau thảo luận về các nội dung có liên quan đến loại hàng hóa mà hai bên cần xác lập quan hệ hợp đồng, trong đấu giá hàng hóa, có thể là người bán tự mình tổ chức đấu giá, hoặc thông qua người tổ chức đấu giá do mình lựa chọn, công khai việc bán hàng hóa đến các đối tượng có quan tâm và lựa chọn người mua trả giá cao nhất trong số những người tham gia đấu giá.
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Bộ luật Dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)”(2). Như vậy, với tư cách là bộ luật gốc điều chỉnh các quan hệ hợp đồng, Bộ luật Dân sự năm 2005 không những điều chỉnh các quan hệ dân sự phát sinh trong lĩnh vực đấu giá, mà còn điều chỉnh quan hệ kinh doanh, thương mại có liên quan đến lĩnh vực này, nếu trong pháp luật thương mại chưa điều chỉnh đến hoặc các bên lựa chọn. Để làm rõ nội dung trên, trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích những điểm khác nhau giữa đấu giá hàng hóa trong pháp luật thương mại với đấu giá tài sản trong pháp luật dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan.

Xử lý tài sản thế chấp trong mối quan hệ với Pháp luật về phá sản

(17/05/2013)

Xử lý tài sản thế chấp vốn dĩ là công việc có tính phức tạp bởi nó có thể liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể cần phải được bảo vệ tại thời điểm mà bên có nghĩa vụ đã vi phạm nghĩa vụ. Đặc biệt khi nhu cầu xử lý tài sản thế chấp lại có sự xung đột với nhu cầu cần tổ chức lại hoạt động của bên có nghĩa vụ phải trả nợ là một chủ thể có nguy cơ phá sản hoặc có sự xung đột về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa bên nhận thế chấp với các chủ thể khác cùng có quyền lợi đối với bên thế chấp khi giải quyết thủ tục phá sản. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ đi vào phân tích đặc trưng và mối quan hệ giữa các quy định về xử lý tài sản thế chấp với pháp luật về phá sản trong trường hợp con nợ không thể trả được nợ. Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất lợi ích của các chủ thể có liên quan, qua đó thúc đẩy các giao dịch dân sự thương mại phát triển một cách an toàn và lành mạnh.