Pháp luật kinh tế
Sign In
Thực trạng áp dụng pháp luật lao động đối với doanh nghiệp siêu nhỏ ở Việt Nam

(29/08/2016)

Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số các doanh nghiệp và là một nguồn chính tạo việc làm cho các nền kinh tế. Trên toàn cầu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới hơn 95% tổng số doanh nghiệp, chiếm khoảng 50% giá trị gia tăng và tạo ra 60% tổng số việc làm. Doanh nghiệp siêu nhỏ là thành phần nhỏ nhất của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng ngày càng đóng vai trò chính trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là cho phụ nữ và thanh niên. Do đó, để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp siêu nhỏ Việt Nam trong thời gian tới, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần phải xây dựng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp với từng giai đoạn phát triển của họ. Trong đó, pháp luật về lao động đối với doanh nghiệp siêu nhỏ là một trong những vấn đề cấp bách cần được quan tâm hoàn thiện. Trong bài viết này, tác giả nêu lên sự khác nhau trong áp dụng pháp luật lao động giữa doanh nghiệp siêu nhỏ với các loại hình doanh nghiệp khác và phân tích những điểm chưa hợp lý của pháp luật lao động đối với doanh nghiệp siêu nhỏ.

Áp dụng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp

(29/08/2016)

Ở nước ta, trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng đã trở thành một vấn đề nổi cộm, tuy chưa có một thống kê chính thức và toàn diện nào về tình trạng vi phạm, song qua các phương tiện thông tin đại chúng có thể thấy, sự vi phạm diễn ra ngày càng phổ biến, mức độ theo chiều hướng trầm trọng hơn và cách thức ngày càng tinh vi hơn. Ngoài các biện pháp bảo vệ quyền như: Biện pháp dân sự, hình sự, hành chính hay biện pháp kiểm soát tại biên giới, mà chủ thể bị vi phạm quyền sở trí tuệ có thể áp dụng hay đề nghị áp dụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì khi Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/01/2000 của Chính phủ về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp ra đời, các chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp đã được trang bị "vũ khí" tự vệ mới, đó là các quy định về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Vậy pháp luật về vấn đề này được thực thi như thế nào trong thời gian qua? Trong bài viết này, tác giả nêu lên thực trạng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam và một số đề xuất cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về lĩnh vực này.

Địa vị pháp lý của cơ quan điều tra vụ việc phòng vệ thương mại

(29/08/2016)

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã mở ra nhiều cơ hội cho ngành kinh tế, đặc biệt là ngành sản xuất hàng hóa nhưng đồng thời đã thu hẹp các công cụ can thiệp chính sách truyền thống mà Chính phủ sử dụng để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước như biện pháp thuế quan, phi thuế quan… Trước sự "tấn công" ồ ạt của hàng hóa đến từ nước xuất khẩu, như một phản ứng tất yếu, các doanh nghiệp ở thị trường nhập khẩu đổ dồn sang sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại vẫn được phép duy trì sau các Hiệp định Thương mại tự do như thuế chống trợ cấp, thuế chống bán phá giá và tự vệ để bảo vệ cho mình. Trước bối cảnh đó, vấn đề đặt ra là hiệu quả hỗ trợ của công cụ phòng vệ thương mại đến đâu phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó chi phối và quyết định là hiệu quả thực thi của cơ quan nhà nước. Bởi lẽ, bản thân các doanh nghiệp không thể tự mình điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại khi thẩm quyền đó thuộc cơ quan thực thi pháp luật phòng vệ thương mại.

Bất cập của pháp luật Việt Nam về quản trị công ty cổ phần

(29/08/2016)

Quản trị công ty cổ phần là một hệ thống các thiết chế, chính sách, quy định nhằm hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, điều hành và giám sát hoạt động của công ty cổ phần. Quản trị công ty cổ phần theo nghĩa rộng nhất nó bao gồm tất cả các mối quan hệ liên quan không chỉ là nội bộ công ty như các cổ đông, hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm soát, người quản lý, người lao động, mà bao hàm cả mối quan hệ với các chủ nợ, người cung cấp nguyên, nhiên vật liệu, khách hàng, nhà nước, cộng đồng, xã hội với công ty.

Một số bất cập về trách nhiệm cung cấp thông tin của chủ thể hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

(26/07/2016)

Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung, doanh nghiệp bảo hiểm không bán sản phẩm hữu hình mà bán sản phẩm vô hình, sản phẩm có thể hình thành hoặc không hình thành trong tương lai. Tại thời điểm bán bảo hiểm, “sản phẩm” bảo hiểm là chưa có. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm, pháp luật kinh doanh bảo hiểm yêu cầu doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc trung thực tuyệt đối phù hợp với đặc thù của hoạt động kinh doanh này. Để tuân thủ nguyên tắc trung thực tuyệt đối, các chủ thể của hợp đồng bảo hiểm cần phải cung cấp thông tin cho nhau một cách chính xác. Theo đó, người mua bảo hiểm phải có trách nhiệm khai báo cho doanh nghiệp bảo hiểm biết về mọi yếu tố liên quan đến đối tượng bảo hiểm; bên bán bảo hiểm cũng phải có nghĩa vụ cung cấp những thông tin cần thiết liên quan đến dịch vụ bảo hiểm mà họ cung ứng. Trong bài viết này, tác giả phân tích sự cần thiết phải quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin của bên mua và bên bán bảo hiểm trong hợp đồng kinh doanh bảo hiểm nhân thọ; đưa ra những bất cập và hướng thoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập

(26/07/2016)

Giao kết hợp đồng dân sự là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ dân sự. Bản chất của giao kết hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận, trong đó, các bên thực hiện sự bày tỏ và thống nhất ý chí nhằm hướng tới những lợi ích nhất định. Việc giao kết hợp đồng dân sự cũng được xác lập trên cơ sở của sự thỏa thuận, thống nhất ý chí đó. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích yếu tố thỏa thuận (ưng thuận) trong hợp đồng (sự thể hiện của yếu tố thỏa thuận trong hợp đồng qua các thời kỳ, quan điểm của một số học giả về sự thỏa thuận trong hợp đồng, bản chất của việc ưng thuận...) và thỏa thuận trong giao kết hợp đồng gia nhập (trong đó nêu rõ giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng của các bên, so sánh sự thỏa thuận trong hợp đồng thông thường với hợp đồng gia nhập, phân tích sự tự do ý chí trong giao kết hợp đồng nói chung và hợp đồng gia nhập nói riêng...).

Những đánh giá định tính về sự tồn tại của kênh truyền dẫn tín dụng ngân hàng ở Việt Nam

(29/06/2016)

Mục tiêu của chính sách tiền tệ trong điều hành nền kinh tế của các quốc gia là duy trì giá cả ổn định, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, ổn định thị trường tài chính... Bên cạnh việc xác định mục tiêu ưu tiên và sử dụng những công cụ phù hợp trong từng thời kỳ, thì quá trình truyền tải chính sách tiền tệ tới nền kinh tế đóng vai trò quyết định nhằm đạt được những mục tiêu kể trên. Cơ chế truyền tải tác động của chính sách tiền tệ mô tả quá trình từ những thay đổi trong lượng tiền lưu thông có tác động như thế nào tới các biến số của nền kinh tế thông qua các kênh truyền dẫn như kênh lãi suất, kênh tỷ giá, kênh của cải, kênh tín dụng, kênh dòng tiền... Do chịu ảnh hưởng từ đặc điểm của từng nền kinh tế, thị trường tài chính và các trung gian tài chính luôn vận động không ngừng nên mức độ hiệu quả của các kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ thay đổi theo thời gian. Vậy ở Việt Nam, kênh truyền dẫn tín dụng ngân hàng có tác động thế nào đến chính sách tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung? Trong bài viết này, tác giả mô tả đặc trưng của hệ thống ngân hàng Việt Nam (trong đó đề cập đến những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của kênh tín dụng ngân hàng như: Mức độ tập trung của hệ thống; mức độ vốn hóa của hệ thống và một số yếu tố khác) và sự phát triển của thị trường vốn ở nước ta.

Chế định trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

(29/06/2016)

Cũng giống như các loại trách nhiệm bồi thường khác, trách nhiệm sản phẩm là hệ thống các quy tắc phân bổ thiệt hại trong xã hội giữa các chủ thể có liên quan khi xảy ra thiệt hại. Vấn đề cơ bản mà chế định này cần giải quyết là khi xảy ra thiệt hại từ quá trình tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ đã được nhà sản xuất, nhà cung ứng sản phẩm, dịch vụ bán ra thị trường, thì ai sẽ phải chịu bồi thường? Bản thân áp lực cạnh tranh trên thị trường cũng khiến nhiều nhà sản xuất tự đưa ra những cam kết của mình trong việc giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế thị trường cho thấy, áp lực cạnh tranh thường không đủ để đảm bảo rằng nhà sản xuất, nhà phân phối có cách ứng xử hài hòa về lợi ích giữa nhà sản xuất, phân phối với người tiêu dùng. Chính vì thế, các quốc gia thường có các quy định pháp luật để giải quyết vấn đề này. Ở Việt Nam thời gian qua, các vụ việc xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng ở quy mô khá lớn liên tục được báo chí phát hiện và đưa ra trước công luận. Các cơ quan chức năng đã vào cuộc, nhưng những biện pháp mà các cơ quan này thực hiện vẫn chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về chế định trách nhiệm sản phẩm. Trong bài viết này, tác giả tiếp cận chế định trách nhiệm sản phẩm từ việc phân tích chế định trách nhiệm bồi thường bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt, từ đó đưa ra các đặc điểm và bản chất pháp lý của chế định trách nhiệm sản phẩm và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Người lao động nước ngoài và đặc trưng của hợp đồng lao động với người lao động nước ngoài

(29/06/2016)

Là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam có thêm nhiều cơ hội tốt để hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, được đối xử bình đẳng trong “sân chơi chung” của thế giới. Hội nhập đem lại nhiều cơ hội,thách thức hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với hàm lượng vốn, tri thức cao đòi hỏi nguồn lực lao động có chất lượng cao. Điều đó đồng nghĩa với việc Nhà nước cũng cần có những chính sách, những quy định pháp luật đối với người lao động nước ngoài trong tổng thể quan hệ lao động hiện nay. Pháp luật lao động Việt Nam hiện nay đã quy định đầy đủ các tiêu chí xác định quan hệ lao động nhưng trong quá trình hội nhập quốc tế các quy định pháp lý về tuyển chọn, sử dụng lao động cần phải hoàn thiện hơn nữa, đặc biệt là đối với hợp đồng lao động có chủ thể là người lao động nước ngoài, chỉ áp dụng với lao động chất lượng cao tại thị trường hợp pháp. Thông qua bài viết, tác giả đã phân tích rất kỹ khái niệm “người nước ngoài”, “người lao động nước ngoài”, những đặc trưng của hợp đồng lao động với người lao động nước ngoài: Điều kiện chủ thể; tính quản lý hành chính trong quan hệ hợp đồng; đối tượng công việc đặc thù; những hạn chế trong thỏa thuận về nội dung và hình thức hợp đồng; pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng lao động, giúp người đọc có cái nhìn tổng quan hơn về những quy định pháp luật lao động hiện hành cho đối tượng là người lao động nước ngoài.