Hoàn thiện pháp luật về mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam[1]
Sign In

Hoàn thiện pháp luật về mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam[1]

Tóm tắt: Ở Việt Nam, cho vay ngang hàng (Peer to Peer Lending - P2P Lending) được đánh giá là một lĩnh vực tương đối mới và tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Mô hình này đang nằm trong khoảng trống của thể chế luật pháp, hành lang pháp lý còn bỏ ngỏ. Trong bài viết này, nhóm tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng quản lý mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng.
 
Abstract: In Vietnam, peer-to-peer lending (P2P Lending) is considered a relatively new and potentially risky field. This model is in the gap of legal institutions, the legal corridor is still open. In this article, the authors have analyzed the theoretical issues and assessed the current situation of management of the peer-to-peer lending model in Vietnam, thereby, making some recommendations to improve the legal mechanism which regulates peer-to-peer lending.
 
1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam hiện nay
1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan điều chỉnh mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam
Hợp đồng vay tài sản hiện nay được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật dân sự nhằm bảo đảm quyền và lợi ích giữa các bên khi tham gia vào quan hệ này, đây là phương tiện pháp lý quan trọng để thực hiện các quan hệ hợp tác giữa các cá nhân, tổ chức nhằm góp phần giải quyết những khó khăn tạm thời về kinh tế đặc biệt là với những gia đình túng thiếu cần vốn để sản xuất, kinh doanh. Cho vay ngang hàng mặc dù có những đặc điểm riêng biệt khác với cho vay thông thường, nhưng về bản chất cũng chính là một trong những loại hình vay. Do đó, cho vay ngang hàng cũng phải tuân theo các quy định chung về hợp đồng vay tài sản được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rõ về hợp đồng vay từ Điều 463 đến Điều 471, đây là quy định theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân sự. Trong đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định rõ về một số nội dung như: Khái niệm của hợp đồng vay tài sản, quyền sở hữu đối với tài sản vay, nghĩa vụ của bên cho vay, nghĩa vụ trả nợ của bên vay, sử dụng tài sản vay, lãi suất vay, thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn, thực hiện hợp đồng vay có kỳ hạn và quy định về họ, hụi, biêu, phường.
1.2. Các quy định của pháp luật về mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam
Pháp luật Việt Nam hiện nay không cấm nhưng cũng chưa có quy định cụ thể về hoạt động cho vay ngang hàng. Tuy cho vay ngang hàng có những đặc điểm khác so với vay thông thường và cần áp dụng khung pháp lý điều chỉnh riêng cho mô hình này, nhưng về bản chất, hoạt động cho vay ngang hàng cũng chính là hoạt động vay, nên về nguyên tắc hoạt động cho vay ngang hàng vẫn phải tuân thủ những quy định chung về hợp đồng vay được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể là:
Thứ nhất, đối tượng của cho vay ngang hàng luôn là một khoản tiền và tất cả những giao dịch trong hoạt động cho vay ngang hàng đều được thực hiện trực tuyến qua internet. Nhưng nếu đối tượng vay của hình thức cho vay ngang hàng lại là vật thì hoàn toàn không khả thi khi thực hiện giao dịch. Bên vay và bên cho vay không thực hiện giao dịch trực tiếp, nên không thể giao tài sản và khó có thể kiểm tra chất lượng của tài sản.
Thứ hai, về hình thức của cho vay ngang hàng: Đối với vay thông thường, hình thức của hợp đồng vay dân sự có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Còn đối với mô hình cho vay ngang hàng, các giao dịch được thực hiện trực tuyến thông qua các trang web, các sàn giao dịch trực tuyến hoặc các ứng dụng được cài đặt trên điện thoại di động thông minh (smartphone), mọi giao dịch giữa bên vay và bên cho vay đều được tiến hành trực tuyến. Hầu hết, hợp đồng vay vốn sẽ được người đi vay và cho vay thỏa thuận ký kết trực tuyến bằng chữ ký điện tử qua các ứng dụng hoặc website của công ty.
Thứ ba, về chủ thể tham gia hoạt động cho vay ngang hàng:
- Bên cho vay: Về bản chất, hoạt động cho vay ngang hàng chính là hoạt động vay, nên các bên chủ thể tham gia vào hoạt động cho vay ngang hàng vẫn phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vay được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, nhà đầu tư khi tham gia vào mô hình cho vay ngang hàng sẽ đóng vai trò là bên cho vay và sẽ phải thực hiện những nghĩa vụ đã được quy định tại Điều 465 Bộ luật Dân sự năm 2015. Bên cạnh những nghĩa vụ mà bên cho vay phải thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, khi tham gia vào mô hình cho vay ngang hàng, nhà đầu tư cần đáp ứng những điều kiện mà các công ty cho vay ngang hàng đặt ra có phần chặt chẽ và rõ ràng hơn so với những quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Việc đặt ra những điều kiện chặt chẽ như vậy nhằm lựa chọn được những nhà đầu tư chất lượng, phù hợp để giảm thiểu tối đa những rủi ro có thể phát sinh trong quan hệ vay.
- Bên vay: Dù chưa có quy định cụ thể về điều kiện, nguyên tắc mà bên vay phải tuân thủ như đối với hình thức vay vốn tại các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại, nhưng bên vay vẫn phải thực hiện những nghĩa vụ mà bên vay trong hợp đồng vay nói chung đã quy định[2]. Bên cạnh những nghĩa vụ mà Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định buộc bên vay phải thực hiện thì những công ty cho vay ngang hàng tại Việt Nam còn đặt ra một số quy định cho người vay để tham gia vào hoạt động vay ngang hàng mà công ty cung cấp. Hiện nay, đa số các công ty đều đặt ra điều kiện về tính chính xác khi cung cấp thông tin cá nhân của người vay, vì những thông tin của người vay là những yếu tố cần thiết cho việc xem xét duyệt đăng ký tài khoản và khoản vay của công ty.
- Bên trung gian: Vì điểm khác biệt trong các đối tượng chủ thể tham gia quan hệ vay của loại hình kinh doanh mới này, nên Bộ luật Dân sự năm 2015 không có điều khoản nào quy định về quyền và nghĩa vụ của bên trung gian. Hiện nay, các mô hình cho vay ngang hàng ở Việt Nam chưa chính thức được cấp phép, nên các công ty cho vay ngang hàng đang hoạt động dưới hình thức là các công ty tư vấn tài chính/đầu tư. Như vậy, các công ty cho vay ngang hàng tại Việt Nam hiện nay phải tuân thủ các nghĩa vụ của doanh nghiệp được quy định tại Điều 8 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Ngoài ra, các công ty phải công bố những thông tin cần thiết về công ty để nhà đầu tư và người đi vay có cơ sở để tìm hiểu và lựa chọn nền tảng cho vay ngang hàng phù hợp. Việc công bố thông tin của các công ty nhằm bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty. Hoạt động quảng cáo, truyền thông của các công ty cho vay ngang hàng nhằm thu hút nhà đầu tư và người đi vay sử dụng dịch vụ của công ty phải tuân thủ quy định của Luật Quảng cáo năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) và các nguyên tắc bảo đảm an toàn thông tin mạng được quy định tại Điều 4 Luật An toàn thông tin mạng năm 2015.
Thứ tư, về lãi suất vay: Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tài sản hoặc số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định chung về lãi suất trong hợp đồng vay mà các hình thức vay hiện tại đều phải tuân thủ. Tuy nhiên, hình thức cho vay ngang hàng lại chưa được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể về mức phí, cũng như lãi suất vay trong hoạt động cho vay ngang hàng. Có hai quan điểm được đưa ra khi kiến nghị xây dựng quy định điều chỉnh lãi suất vay của mô hình cho vay ngang hàng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, lãi suất vay của các công ty phải tuân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, tức là không được quá 20%/năm của khoản tiền vay theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Bởi vì đây là quy định chung về lãi suất trong hợp đồng vay, áp dụng cho tất cả các hình thức cho vay tại Việt Nam. Về bản chất, hoạt động cho vay ngang hàng cũng chính là hoạt động vay nên khi xây dựng quy định về lãi suất của hình thức vay ngang hàng cũng phải tuân thủ theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Quan điểm thứ hai cho rằng, cần đặt ra một mức lãi suất riêng cho mô hình cho vay ngang hàng bởi những đặc trưng riêng của mô hình này. Xét về tính chất, đây là cho vay chuyên nghiệp, mang tính chất kinh doanh, mang những đặc điểm khác biệt so với hình thức vay khác khi có thêm bên trung gian tham gia vào hoạt động vay nên ngoài lãi suất cho vay, người đi vay phải trả rất nhiều loại phí như phí tư vấn, phí trả nợ trước hạn. Do vậy, tổng các khoản phí và mức lãi suất của mô hình cho vay ngang hàng cao hơn so với vay thông thường. Nếu xét trên thực tiễn thì điều này hoàn toàn hợp lý khi bên trung gian đóng vai trò rất lớn trong việc kết nối nhà đầu tư với người đi vay một cách phù hợp và thuận tiện nhất. Tuy nhiên, mức phí này cần được quy định một cách cụ thể, rõ ràng, để tránh sự lạm dụng, trục lợi của các công ty.
Thứ năm, về mục đích sử dụng vốn vay: Căn cứ theo quy định tại Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các bên có thể thỏa thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay. Đối với hình thức cho vay ngang hàng thì đối tượng tìm đến hình thức này thường là những người có nhu cầu vay khoản vay không quá lớn. Chính vì vậy, mục đích sử dụng vốn vay của các đối tượng này thường là mua sắm tiêu dùng hoặc vay số vốn nhỏ để kinh doanh.
Thứ sáu, về thủ tục vay: Đối với hình thức cho vay ngang hàng thì việc giao kết hợp đồng vay sẽ thuận tiện và nhanh gọn hơn với 02 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1, xét duyệt hồ sơ: Mô hình cho vay ngang hàng mang một đặc điểm có thể coi là ưu điểm vượt trội so với vay thông thường đó chính là chế độ tự động. Chế độ này bao gồm cả hoạt động phân bổ quỹ đầu tư tự động vào các khoản vay có sẵn dựa trên mong muốn đầu tư và các công cụ tự động so sánh, đối chiếu các yêu cầu của nhà đầu tư với các hồ sơ vay vốn của khách hàng trên hệ thống. Thời gian xét duyệt hồ sơ ngắn hơn rất nhiều so với khâu thẩm định hồ sơ tín dụng của vay thông thường, có thể chỉ sau 24 giờ, nhà đầu tư và người đi vay đã có thể ký kết hợp đồng vay.
Giai đoạn 2, ký kết hợp đồng và thanh toán phí dịch vụ: Sau khi được xét duyệt hồ sơ vay vốn, nhà đầu tư và người đi vay ký kết hợp đồng do hệ thống tạo ra và thanh toán phí giao dịch cho nền tảng cho vay ngang hàng. Hệ thống tạo ra một hợp đồng dựa trên thông tin mà bên đi vay và bên cho vay cung cấp và hợp đồng được ký bởi cả bên vay và bên cho vay. Hầu hết, hợp đồng vay vốn sẽ được hai bên thỏa thuận ký kết trực tuyến bằng chữ ký điện tử qua app hoặc website của công ty.
Thứ bảy, về thực hiện hợp đồng vay: Giai đoạn này bao gồm việc thực hiện điều khoản cho vay, thực hiện điều khoản sử dụng vốn và thực hiện điều khoản trả nợ.
Như vậy, có thể thấy, thủ tục vay của mô hình cho vay ngang hàng thuận tiện và nhanh chóng hơn rất nhiều so với hình thức vay thông thường khi chỉ cần những thao tác đơn giản là người đi vay đã hoàn thành xong thủ tục vay và nhận được khoản tiền vay mà mình mong muốn. Mô hình cho vay ngang hàng giúp cho khách hàng và nhà đầu tư tiết kiệm được tối đa thời gian. Đây có thể coi là một trong những ưu điểm vượt trội của mô hình cho vay ngang hàng so với hình thức vay thông thường.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về cho vay ngang hàng
Thứ nhất, Việt Nam nên sớm hoàn thiện khung pháp lý thử nghiệm trước khi xây dựng hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho mô hình cho vay ngang hàng.
Khung pháp lý thử nghiệm (Sandbox) là cơ chế quản lý thử nghiệm đặc thù nhằm tạo môi trường pháp lý thử nghiệm cho các công ty cung ứng giải pháp tài chính mới. Việc áp dụng khung pháp lý thử nghiệm có thể giúp Việt Nam hạn chế các biến tướng, cũng như loại bỏ những nền tảng không hiệu quả. Trong quá trình thực hiện khung pháp lý thử nghiệm, có thể bổ sung một số quy định như sau:
 (i) Quy định cụ thể về trách nhiệm hoặc cam kết của các bên tham gia, yêu cầu bắt buộc về nội dung và hình thức của các hợp đồng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia cho vay ngang hàng.
(ii) Bổ sung quy định về thiết lập mức giới hạn khoản tiền vay của bên cho vay đầu tư qua nền tảng cho vay ngang hàng, cũng như mức giới hạn khoản tiền vay mà bên vay có thể vay thông qua hệ thống.
(iii) Đưa ra các yêu cầu đối với công ty trong quá trình hoạt động như: Nghĩa vụ công bố thông tin của công ty; cơ chế bảo mật thông tin khách hàng; hoạt động quảng cáo và xúc tiến thương mại của công ty; phòng chống rửa tiền.
Thứ hai, ban hành quy định cụ thể về điều kiện để cấp phép hoạt động và các quy định điều chỉnh hoạt động của công ty cho vay ngang hàng sau khi được cấp phép.
- Quy định về điều kiện để các công ty cho vay ngang hàng được cấp phép hoạt động. Cơ quan cấp phép phải đưa ra các tiêu chuẩn cơ bản mà một công ty phải đáp ứng để được cấp phép hoạt động như: Điều kiện về trang mạng (website) hoặc ứng dụng (application); điều kiện về nguồn tài chính trong đó có số vốn tối thiểu để thành lập công ty; kế hoạch dự phòng nếu có nợ xấu. Ngoài ra, pháp luật cũng cần chỉ rõ công ty phải đáp ứng các nghĩa vụ của doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Quảng cáo năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Luật An toàn thông tin mạng 2015. Bên cạnh đó, cần có những quy định về thẩm quyền cấp phép hoạt động đối với các công ty, thẩm quyền quản lý, giám sát công ty.
- Các quy định để điều chỉnh hoạt động cho vay ngang hàng của công ty khi đi vào hoạt động: (i) Các quy định giới hạn phạm vi cung cấp dịch vụ đối với các công ty cung cấp dịch vụ. Các công ty chỉ được cung cấp nền tảng kết nối người cho vay và người vay và chỉ thực hiện các dịch vụ hỗ trợ tài chính liên quan, mà không được thực hiện bất kỳ hoạt động cho vay hay cấp vốn trực tiếp nào; (ii) Quy định về việc xây dựng bộ máy quản lý và nhân sự của công ty sau khi được cấp phép hoạt động. Bộ máy quản lý của các công ty cần bảo đảm chất lượng và phù hợp với quy mô hoạt động của công ty. Nhân sự hoạt động trong từng bộ phận phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn nhất định tùy vào từng cấp bậc và những quy định mà cơ quan quản lý đưa ra (nếu có); (iii) Về quy định cụ thể trong hoạt động cho vay ngang hàng của công ty, công ty phải nghiêm chỉnh chấp hành khung pháp lý được cơ quan quản lý có thẩm quyền kết hợp với các bộ ngành liên quan đưa ra quy định.
- Quy định về lãi suất, nhóm tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai về cần đặt ra một mức lãi suất riêng cho mô hình cho vay ngang hàng[3]. Theo đó, pháp luật cần ban hành quy định riêng để điều chỉnh mức lãi suất của cho vay ngang hàng cũng như các quy định cụ thể về cách tính lãi suất trong hạn, cách tính lãi suất quá hạn; cách giải quyết nếu các công ty cho vay ngang hàng đưa ra mức lãi suất cao hơn mức lãi suất pháp luật quy định. Thực tiễn hiện nay cho thấy, cần nhanh chóng đưa ra quy định cụ thể, thống nhất về mức lãi suất đối với cho vay ngang hàng, cụ thể là, áp dụng mức lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 hay có quy định riêng đối với hình thức này.
- Quy định về các khoản phí kèm theo, công ty phải cung cấp đầy đủ thông tin đối với bên vay và các nhà đầu tư, chỉ rõ những loại phí cụ thể áp dụng cho từng đối tượng, đưa ra danh sách những đối tượng thuộc diện phải nộp phí.
- Quy định về mục đích sử dụng vốn, công ty yêu cầu người đi vay phải làm rõ mục đích sử dụng vốn, đồng thời phải chứng minh là khoản vay sẽ được sử dụng cho mục đích không trái với quy định của pháp luật. Đồng thời, cần chỉ rõ trong trường hợp nào thì các công ty được cho vay tài sản có thế chấp; cũng như quyền lợi của công ty trong việc kiểm tra việc sử dụng tài sản và đòi lại tài sản vay trước thời hạn nếu bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích.
- Quy định về thủ tục cho vay ngang hàng, cần quy định cụ thể thủ tục bao gồm những giai đoạn nào, các bên tham gia phải thực hiện những gì trong từng giai đoạn. Đặc biệt, trong hợp đồng cho vay ngang hàng cần quy định cụ thể về các điều khoản cho vay, sử dụng vốn cũng như trả nợ.
Thứ ba, ban hành các quy định về nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động cho vay ngang hàng.
- Về nghĩa vụ của bên cho vay (nhà đầu tư), pháp luật cần đưa ra quy định về giới hạn đầu tư dành cho nhà đầu tư dựa trên tình hình thực tiễn của Việt Nam. Ngoài ra, nhà đầu tư có nghĩa vụ giao tài sản đúng thỏa thuận trong hợp đồng; bảo đảm đầy đủ giá trị của khoản vay, số tiền được chuyển đến tài khoản của bên vay chính xác như số tiền đã được ghi trong hợp đồng vay. Trường hợp nhà đầu tư chuyển đến tài khoản của người đi vay số tiền ít hơn số tiền đã thỏa thuận thì nhà đầu tư có nghĩa vụ phải chuyển phần tiền còn thiếu hoặc phải bồi thường thiệt hại cho người đi vay vì đã gây thiệt hại đến lợi ích của họ. Nhà đầu tư còn có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy định khác mà công ty đưa ra.
- Đối với nghĩa vụ của bên vay: Trước hết, bên vay có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin cá nhân khi tham gia giao dịch, bên vay phải tuân thủ quy định về giới hạn khoản vay. Sau khi ký kết hợp đồng vay, bên vay có nghĩa vụ phải trả nợ cho nhà đầu tư đúng thời hạn đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Theo đó, bên vay phải thanh toán toàn bộ khoản vay và lãi thông qua tài khoản của nhà đầu tư đã liên kết với các ứng dụng (hay với trang web) của công ty. Nếu trả nợ chậm hơn so với thời hạn vay hoặc trả không đủ số tiền đã vay như thỏa thuận, thì bên vay phải trả số tiền lãi với mức lãi suất (phù hợp với quy định pháp luật) theo yêu cầu bên cho vay hoặc thực hiện các điều khoản kèm theo về việc chậm trả nợ hoặc trả không đủ số tiền đã vay.
- Về nghĩa vụ của bên trung gian hay chính là các công ty cung cấp nền tảng: (i) Các công ty có nghĩa vụ bảo mật đối với thông tin cá nhân của người dùng thông qua việc xây dựng các chương trình bảo mật thông tin để bảo vệ hồ sơ cá nhân của khách hàng; giới hạn việc công ty tiết lộ thông tin cá nhân của người dùng cho bên thứ ba, đồng thời yêu cầu các công ty công khai chính sách về quyền riêng tư; (ii) Các công ty phải công bố những thông tin cần thiết cho nhà đầu tư và người đi vay nhằm bảo đảm tính minh bạch trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty. Mặt khác, hoạt động quảng cáo của công ty phải tuân thủ quy định của Luật Quảng cáo năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) và các nguyên tắc bảo đảm an toàn thông tin mạng. Công ty còn có trách nhiệm báo cáo thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước định kỳ hoặc đột xuất và phối hợp với hoạt động thanh tra, kiểm tra định kỳ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra, pháp luật cần xem xét đưa công ty cho vay ngang hàng vào danh sách các đối tượng báo cáo theo Điều 2 Luật Phòng chống rửa tiền 2012.
- Trước khi hợp đồng cho vay ngang hàng được thực hiện, công ty phải thực hiện chấm điểm tín dụng và khả năng thanh toán của người đi vay. Nếu khách hàng thanh toán lãi và gốc nợ chậm thì công ty cho vay ngang hàng có trách nhiệm liên lạc với bên đi vay và khuyến khích họ thảo luận về tình trạng khoản vay của họ.
Thứ tư, đưa ra cơ chế để giải quyết các tranh chấp xảy ra trong hoạt động cho vay ngang hàng.
Pháp luật cần ban hành quy chế chung để giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra cũng như xử lý các yêu cầu khiếu nại của người dùng trong hoạt động cho vay ngang hàng. Cần đưa ra quy định cụ thể trong cơ quan có thẩm quyền thụ lý và giải quyết các tranh chấp đối với hoạt động cho vay ngang hàng; nghĩa vụ của các công ty cung ứng nền tảng trong việc giải quyết các tranh chấp. Các công ty cần có quy chế để giải quyết các khiếu nại của người dùng, cụ thể: Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại; thời hạn giải quyết tối thiểu và tối đa; thông báo về kết quả giải quyết.
Thứ năm, ban hành quy định cụ thể về chế tài xử phạt đối với các công ty cho vay ngang hàng có hành vi vi phạm pháp luật.
Pháp luật cần đưa ra chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm pháp luật của công ty. Xác định những hành vi nào của công ty được xem là vi phạm pháp luật. Từ đó, đưa ra quy định cụ thể về mức xử phạt tương đương đối với mức độ hành vi vi phạm; đồng thời, đưa ra các quy định đối với những trường hợp sẽ bị truy cứu các trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự.
TS. Lê Thị Giang
Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội
Dương Lan Chi, Trần Nhật Phương & Bùi Thị Minh Nhật
Sinh viên lớp 4523, Ngành Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội
 
 
[1]. Bài viết nằm trong khuôn khổ Đề tài khoa học cấp Trường năm 2022: “Hành lang pháp lý về mô hình cho vay ngang hàng tại Việt Nam - Thực trạng kiến nghị và hoàn thiện”.
[2]. Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[3]. Xem điểm Thứ tư tại mục 1.2 Bài viết này.