Diễn đàn công tác tư pháp
Sign In
Một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm trong các giao dịch bảo đảm đã được công chứng

(15/07/2013)

Như chúng ta đã biết, “chịu trách nhiệm dân sự” là một trong những nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự năm 2005. Và để bảo đảm các bên tham gia giao kết, thực hiện hợp đồng, giao dịch dân sự tuân thủ nguyên tắc vừa nêu trên thực tiễn, đạo luật kể trên cũng đã dành toàn bộ Mục 5, Chương XVII, Phần thứ ba để quy định về “Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Tham khảo toàn văn nội dung những điều luật có liên quan tới bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, chúng tôi thấy các nhà làm luật đã đưa ra hàng loạt biện pháp bảo đảm, có bản chất pháp lý rất đa dạng. Có biện pháp bảo đảm mang tính “đối vật” (ví dụ như cầm cố tài sản), có biện pháp bảo đảm mang tính “đối nhân” (ví dụ như tín chấp) hay có cả biện pháp vừa mang tính “đối vật” lại vừa mang tính “đối nhân” (ví dụ như bảo lãnh). Sau này, trong một số văn bản dưới luật liên quan, có tính chất hướng dẫn như Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/2/2012 của Chính phủ, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm.., các giao dịch trong kể trên được gọi dưới một cái tên chung là “giao dịch bảo đảm”. Đặc biệt, vai trò của công chứng trong việc chứng nhận các hợp đồng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm cũng đã được khẳng định trên nguyên tắc ngay chính tại Bộ luật Dân sự năm 2005 (xem các Điều 343, 362.., Bộ luật Dân sự năm 2005). Hơn thế nữa, quy định mang tính nguyên tắc vừa nêu tiếp tục được cụ thể hóa trong một vài đạo luật chuyên ngành khác có liên quan. Ví dụ như Điều 130, Luật Đất đai năm 2003 quy định "Trình tự, thủ tục đăng ký, xoá đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất và xử lý quyền sử dụng đất đã thế chấp, đã bảo lãnh để thu hồi nợ"; Điều 93, Luật Nhà ở năm 2005 xác định "Trình tự, thủ tục trong giao dịch về nhà ở" bao gồm các hình thức như mua bán, thuê, thuê mua, tặng cho, đổi, thế chấp, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ quyền quản lý nhà ở... Về mặt lý thuyết, tất cả quy định kể trên nhằm tạo ra một hành lang pháp lý đồng bộ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao kết các hợp đồng, giảm thiểu tranh chấp cũng như rút ngắn thời hạn xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, do các quy định hiện hành còn tồn tại nhiều bất cập, không đồng bộ cũng như thiếu thống nhất nên có vẻ như mục đích kể trên vẫn chưa đạt được. Nói cụ thể hơn, mặc dù đã tuân thủ nghiêm ngặt một trình tự, thủ tục phức tạp do luật định nhưng các hợp đồng công chứng trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm chưa thể hiện được vị trí, vai trò của mình trên thực tế cuộc sống. Để làm rõ nhận định nêu trên, dưới đây chúng tôi xin phân tích một số quy định hiện hành của pháp luật có liên quan.

Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử các tội phạm ở địa bàn thiết quân luật

(15/07/2013)

Trong các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các Toà án, việc phân định thẩm quyền xét xử có vai trò rất quan trọng, chiếm vị trí trung tâm trong tố tụng hình sự. Xác định đúng đắn thẩm quyền xét xử của Toà án nói chung và thẩm quyền xét xử của các Toà án quân sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của Toà án các cấp xét từ góc độ pháp lý cũng như từ góc độ chính trị xã hội.
Để làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện thẩm quyền xét xử của của các Toà án quân sự, trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin đề cập tới một nội dung rất quan trọng thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự đó là: Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự đối với các tội phạm xảy ra trong thời gian thiết quân luật và ở địa bàn thiết quân luật (gọi tắt là trong thời gian và địa bàn thiết quân luật). Trên cơ sở đó góp phần cho việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Bàn về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử

(12/07/2013)

Quá trình giải quyết một vụ án hình sự là một quá trình đòi hỏi các yêu cầu khắt khe về thủ tục tố tụng, không giống như giải quyết một vụ việc dân sự, kinh tế, lao động hay hành chính. Quá trình này có sự tham gia của nhiều cơ quan và người tiến hành tố tụng khác nhau, nên thẩm quyền của các chủ thể này cũng khác nhau từ lúc khởi tố vụ án cho đến giai đoạn xét xử vụ án. Quá trình này được tiến hành thông qua các giai đoạn tố tụng như sau: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Có thể nói, giai đoạn đầu tiên cũng là giai đoạn rất quan trọng của vụ án chính là giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, “với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và pháp luật về hình thức (tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự”(1). Giai đoạn này nhằm làm cơ sở cho việc xác định một người nào đó có hành vi phạm tội (hành vi nguy hiểm cho xã hội) hay không.

Nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử

(03/06/2013)

Cách mạng Tháng Tám thành công đã ghi thêm một trang sử vẻ vang, chói lọi của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân ta đã đập tan ách phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp gần 100 năm, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Để giữ được thành quả cách mạng non trẻ lúc bấy giờ, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhanh chóng tổ chức, xây dựng bộ máy chính quyền cách mạng, để duy trì ổn định trật tự xã hội, thực thi quyền lực nhà nước, trong đó có Tòa án. Ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 33C thiết lập các Toà án Quân sự, đánh dấu sự ra đời của Ngành Toà án Việt Nam. Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, cho đến nay, Ngành Tòa án được tổ chức, thành lập và hoạt động theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Sau 25 năm đổi mới, tình hình kinh tế, đời sống của nhân dân ngày càng phát triển về mọi mặt, chính trị trong nước được ổn định. Đạt được kết quả trên là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đoàn kết của toàn Đảng, toàn dân ta. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, chính trị, tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức diễn ra ngày càng đa dạng và phức tạp. Các loại tội phạm xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như: Xâm phạm an ninh quốc gia; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền sở hữu tài sản công dân; xâm phạm trật tự an toàn xã hội trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, bảo vệ môi trường, ma túy, tham nhũng... các chiêu thức và thủ đoạn diễn ra rất tinh vi. Các loại tội phạm hình sự không còn diễn ra ở một địa phương, một vùng, mà còn mang tính xuyên quốc gia, vì vậy hệ thống pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ dân sự, hình sự, hành chính, thương mại… được Quốc hội hết sức quan tâm, ban hành và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước. Tuy nhiên, các quan hệ xã hội diễn ra ngày càng phức tạp, nhiều chế định pháp luật không đi trước đón đầu được, đây là những vướng mắc cho quá trình quản lý và duy trì trật tự xã hội hiện nay.

Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về phiên tòa giám đốc thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

(28/03/2013)

Trong những năm qua, nhất là từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự được sửa đổi, bổ sung vào năm 2003, các thủ tục về giám đốc thẩm đã phù hợp hơn với thực tiễn hoạt động tư pháp ở Việt Nam, hiệu quả áp dụng đã được ghi nhận thông qua các báo cáo tổng kết công tác hàng năm của Ngành Toà án. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động giám đốc thẩm của các cơ quan tiến hành tố tụng thời gian qua cho thấy, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục giám đốc thẩm nói chung, quy định về thủ tục phiên toà giám đốc thẩm nói riêng vẫn còn những vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương cải cách tư pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm. Cụ thể, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định hướng hoàn thiện pháp luật tố tụng về giám đốc thẩm, tái thẩm như sau: “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”. Vì vậy, việc nghiên cứu, hoàn thiện thủ tục phiên toà giám đốc thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp là rất cần thiết.

Báo cáo thống kê thi hành án dân sự - Một số vấn đề từ thực tiễn

(22/01/2013)

Theo Từ điển Tiếng Việt, báo cáo được hiểu là “trình bày cho biết tình hình, sự việc” (1). Trong hoạt động của mình các chủ thể quản lý thông qua báo cáo nhằm nắm bắt tình hình các hoạt động của mình hoặc hoạt động của người khác. Vì vậy, trong thực tiễn đời sống xã hội có rất nhiều loại báo cáo khác nhau nhằm phục vụ cho các hoạt động của cá nhân, tổ chức.