Diễn đàn công tác tư pháp
Sign In
Giải đáp những vướng mắc về cải cách thủ tục hành chính

(23/03/2015)

Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã nhận được phản ánh của một số đơn vị, cá nhân về những vướng mắc trong cải cách thủ tục hành chính, liên quan đến quy định của Thông tư số 05/2014/TT-BTP ngày 07/02/2014 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công bố, niêm yết thủ tục hành chính và báo cáo về tình hình, kết quả thực hiện kiểm soát thủ tục hành chính (Thông tư số 05/2014/TT-BTP). Để giải đáp những vướng mắc này, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính – Bộ Tư pháp đã có những hướng dẫn cụ thể về công bố thủ tục hành chính:
Vấn đề thứ nhất: Tại điểm a khoản 1 Điều 7 Thông tư số 05/2014/TT-BTP nêu: “Căn cứ vào Quyết định công bố của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ… cơ quan chuyên môn về ngành, lĩnh vực thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ sung thủ tục hành chính hoặc bộ phận tạo thành của thủ tục hành chính, hoàn thành dự thảo Quyết định công bố trong thời hạn 02 (hai) ngày làm việc kể từ ngày nhận được Quyết định công bố”.

Chế tài trong hương ước nhìn từ thực tiễn địa phương

(09/03/2015)

Hương ước, quy ước là văn bản quy phạm xã hội, trong đó quy định các nguyên tắc xử sự do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận và đặt ra để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mang tính chất tự quản của nhân dân nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa, góp phần hỗ trợ tích cực cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật. Hương ước, quy ước phản ánh tâm lý của người dân, phản ánh một phương diện quan trọng của văn hóa cộng đồng dân cư, đồng thời có ý nghĩa giáo dục và động viên nhân dân hành động, gắn bó dân làng thành một cộng đồng chặt chẽ, điều tiết trách nhiệm và quyền lợi của mọi thành viên trong cộng đồng dân cư.

Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại và hướng giải quyết

(23/01/2015)

Việc thí điểm chế định Thừa phát lại đang được thực hiện tại 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo các Nghị quyết của Quốc hội. Mặc dù, hoạt động của Thừa phát lại đã đạt được một số kết quả khả quan, tuy nhiên, do còn mới mẻ và với tính đặc thù của mình mà việc thí điểm chế định Thừa phát lại gặp không ít khó khăn, vướng mắc.

Các tiêu chí tiếp cận pháp luật tại cơ sở - Những vướng mắc, bất cập và định hướng hoàn thiện

(23/01/2015)

Ngày 24/01/2013, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg về việc ban hành Quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở (Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg).

Trợ giúp pháp lý Quảng Nam sau bốn năm đem “cái luật” đến với dân nghèo vùng cao

(22/01/2015)

Trợ giúp pháp lý là hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho đối tượng theo quy định của pháp luật để họ tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời hoạt động trợ giúp pháp lý còn tham gia tuyên truyền, hướng dẫn để mọi người dân hiểu và chấp hành pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, hạn chế các tranh chấp, khiếu nại có thể xảy ra. Như vậy, nội hàm của trợ giúp pháp lý có hai vấn đề lớn là cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí và góp phần tuyên truyền pháp luật. Trong những năm qua, Quảng Nam đã làm tốt công tác này và được Ngành Tư pháp đánh giá cao, đối tượng trợ giúp pháp lý được hưởng lợi từ hoạt động trợ giúp pháp lý mang lại. Bài viết đề cập đến kết quả đã đạt được của công tác trợ giúp pháp lý ở Quảng Nam trong 04 năm thực hiện Quyết định số 52/2010 ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 – 2020, mà ở đây là 03 huyện nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Nam (Nam Trà My, Tây Giang và Phước Sơn). 
Những kết quả đã đạt được

Quan niệm về công lý ở Việt Nam từ năm 1945 đến cuộc cải cách tư pháp năm 1950

(18/12/2014)

Ở Việt Nam, công lý là một giá trị “chính trị - tư pháp”. Giá trị này đã được ghi nhận ngay từ những ngày đầu thành lập chính quyền cách mạng nhân dân và gắn liền với yêu cầu củng cố và phát triển của nhà nước cách mạng.

Đăng ký giữ quốc tịch theo luật quốc tịch Việt Nam

(22/10/2014)

Quốc tịch (Nationality) là vấn đề mang ý nghĩa chính trị, pháp lý hết sức sâu sắc, thể hiện quan hệ gắn bó giữa Nhà nước và công dân, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân. Để xác định quốc tịch, các nước trên thế giới đều ban hành Luật Quốc tịch (Nationality Law/ Nationality Act) làm cơ sở pháp lý xác định quốc tịch của công dân mình. Đối với Việt Nam, ngay từ ngày mới giành được độc lập, ngày 20/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 53/SL quy định về quốc tịch và trong suốt quá trình xây dựng đất nước, Nhà nước Việt Nam đã ba lần xây dựng và sửa đổi Luật Quốc tịch (Law on Vietnamese Nationality) vào năm 1988, 1998 và 2008. Luật Quốc tịch năm 2008 có nhiều quy định mới so với pháp luật về quốc tịch trước đây, trong đó có chế định đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam. Bài viết này giới thiệu về một số vấn đề liên quan tới chế định đăng ký giữ quốc tịch theo Luật Quốc tịch Việt Nam, đồng thời nêu một số ý kiến nhằm đảm bảo tính khả thi của chế định này.