Hiến pháp năm 2013 - nền tảng để hoàn thiện các thiết chế tư pháp bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Sign In

Hiến pháp năm 2013 - nền tảng để hoàn thiện các thiết chế tư pháp bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân

 

1. Hiến pháp năm 2013 - những điểm mới cơ bản về quyền tư pháp, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các thiết chế tư pháp với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014, ghi nhận nhiều quy định mới, có tính đột phá, tạo nền tảng để hoàn thiện các thiết chế tư pháp bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Thứ nhất, lần đầu tiên kể từ sau Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ địa vị pháp lý của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; đồng thời, hiến định nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ), tư pháp (Tòa án) trong việc thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất do nhân dân giao phó.       

Thứ hai, cũng lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định sứ mệnh cao quý, riêng có của Tòa án là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Điều 102). Quy định này vừa thể chế hóa mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp là “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý”, vừa phản ánh khát vọng của nhân dân về một Tòa án đại diện cho công lý trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 đã hiến định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Tòa án với nhiều nội dung mới, đột phá, phản ánh thành quả bước đầu của cuộc cải cách tư pháp lâu dài, khó khăn theo các định hướng chiến lược mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Đảng đã đề ra.

Có thể nói, cả bảy khoản của Điều 103 Hiến pháp đều có những nội dung mới, bổ sung phát triển các nguyên tắc nền tảng đã được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây. Cụ thể: Nguyên tắc độc lập xét xử được bổ sung quy định “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm” (khoản 2); nguyên tắc xét xử công khai được bổ sung bằng quy định rõ trong những trường hợp đặc biệt để “giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự” thì Tòa án có thể xét xử kín (khoản 3), nhưng việc tuyên án vẫn phải được công khai (Điều 31, khoản 2); nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số cũng được bổ sung một quy định có tính mở “trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” (khoản 4), tạo cơ sở cho các luật, bộ luật tố tụng quy định cụ thể về thủ tục rút gọn - vốn là một vấn đề thực tiễn rất cấp thiết và là một chủ trương của Chiến lược cải cách tư pháp nhưng chưa được giải quyết thấu đáo trong thời gian qua do thiếu cơ sở hiến định; nguyên tắc tham gia xét xử của hội thẩm cũng có những điều chỉnh quan trọng, theo đó hội thẩm chỉ tham gia việc xét xử sơ thẩm nhưng có loại trừ “trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” (khoản 1), mặt khác, Hiến pháp không còn quy định: “Khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán” như quy định của các bản Hiến pháp năm 1992, 1980 và 1959, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu đổi mới cơ bản chế định đại diện nhân dân tham gia việc xét xử theo hướng thực chất, hiệu quả hơn.

Hiến pháp năm 2013 đồng thời tạo cơ sở hiến định cho các khâu đột phá của Chiến lược cải cách tư pháp về tổ chức và hoạt động xét xử của Tòa án bằng việc bổ sung những nguyên tắc mới chưa được quy định trong các bản Hiến pháp trước đây, đó là nguyên tắc hai cấp xét xử: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” (khoản 6) và nguyên tắc tranh tụng - khâu đột phá của Chiến lược cải cách tư pháp “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5).

Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 đã hoàn thiện đáng kể các quy định về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tố tụng tư pháp. Quyền bào chữa, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong các quá trình tố tụng tư pháp được khẳng định và mở rộng so với các bản Hiến pháp trước đây. Khoản 7 Điều 103 quy định: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” vừa là sự ghi nhận quyền con người phải được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm trong tố tụng tư pháp, vừa là một phương thức bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Không chỉ thế, quyền bào chữa và phương thức thực hiện quyền bào chữa trong suốt quá trình tố tụng hình sự còn được quy định rõ, cụ thể tại khoản 4 Điều 31: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Quyền của người bị buộc tội “phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai” (khoản 2 Điều 31) cùng với nguyên tắc suy đoán vô tội được sửa đổi, bổ sung theo hướng chuẩn xác hơn, minh bạch và pháp quyền hơn bằng quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực” (khoản 1 Điều 31) là những điểm mới quan trọng nhằm đảm bảo quyền tiếp cận tư pháp, tiếp cận công lý - một quyền con người quan trọng đã được ghi nhận trong Công ước của Liên Hợp Quốc về các quyền dân sự, chính trị của con người. Quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần, được phục hồi danh dự do hành vi trái pháp luật của những cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng được quy định cụ thể và mở rộng phạm vi đến người bị bắt, tạm giữ, tạm giam và trong tất cả các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án (khoản 5 Điều 31).

Việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực tố tụng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đã được Hiến pháp lần đầu tiên ghi nhận, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cụ thể là nguyên tắc “các quyền con người, quyền công dân... được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và nguyên tắc “quyền con người chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14).

Các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Tòa án và các nguyên tắc bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân cùng những quy định cụ thể về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực tư pháp trong Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định vững chắc cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án và các cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện quyền tư pháp phù hợp với định hướng cải cách tư pháp vì mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

2. Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và việc hoàn thiện thể chế về tổ chức, hoạt động của các thiết chế tư pháp, bổ trợ tư pháp

Theo các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ, từ năm 2014 đến hết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (2016), trong Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhằm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, có rất nhiều luật liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của Tòa án và các thiết chế tham gia thực hiện quyền tư pháp cần được tập trung xây dựng, hoàn thiện.

Việc xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung các các luật về tổ chức Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra hình sự, các luật về tố tụng như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính cần được triển khai khẩn trương, đồng bộ theo các hướng chính sau đây:

2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Tòa án theo các định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp phù hợp với tinh thần, nội dung của Hiến pháp năm 2013

Thứ nhất, cụ thể hóa vị trí, chức năng thực hiện quyền tư pháp của Tòa án đã được quy định tại Hiến pháp năm 2013. Nội dung cụ thể của quyền tư pháp gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án đã được thảo luận nhiều trong quá trình Quốc hội xem xét trước khi thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân tại kỳ họp thứ 8 vừa qua (11/2014) và vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hóa một cách đúng đắn, thống nhất trong các luật, bộ luật về tố tụng [1].

Thứ hai, cụ thể hóa các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Tòa án đã được quy định tại Hiến pháp, phù hợp với định hướng cải cách tư pháp, cụ thể là tổ chức Tòa án nhân dân theo 04 cấp: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện (không theo Tòa án sơ thẩm khu vực như Nghị quyết số 49-NQ/TW đã định hướng). Việc thành lập các tòa chuyên trách gồm Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Hành chính, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Gia đình và Người chưa thành niên, Tòa Xử lý hành chính (mới) theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và theo yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án sẽ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo thẩm quyền hoặc đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập.

Phân định lại thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp theo hướng đảm bảo 02 cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao chỉ giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có quyền tổng kết thực tiễn xét xử, phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.

Thứ ba, luật hóa các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm và thủ tục tuyển chọn, thi tuyển, phê chuẩn và bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp. Thẩm phán gồm 04 ngạch: Sơ cấp, trung cấp, cao cấp và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (từ 13 - 17 người) với nhiệm kỳ dài hơn so với quy định hiện hành [2]. Điểm mới quan trọng là, người muốn được tuyển chọn, bổ nhiệm làm thẩm phán sơ cấp phải trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn thẩm phán; làm thẩm phán trung cấp, cao cấp phải trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch thẩm phán trung cấp, cấp cao. Thành lập Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia cũng là một điểm mới quan trọng của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, theo đó, Hội đồng có các nhiệm vụ xem xét, tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn, điều kiện làm thẩm phán; Hội đồng cũng thực hiện giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, lối sống của thẩm phán. Thành phần của Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia không chỉ có thành viên là đại diện của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp cao, Bộ Quốc phòng mà còn có đại diện của Văn phòng Chủ tịch nước, Chính phủ (mà đại diện là Bộ Tư pháp), Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Luật gia. Ngoài ra, Luật cũng quy định thành lập Hội đồng thi tuyển chọn thẩm phán (trừ thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) với sự tham gia của Bộ Nội vụ. Đây là bước tiến mới, tuy chưa triệt để như mô hình Hội đồng tư pháp quốc gia ở các nước, nhưng cũng tạo cơ sở cho việc kiểm soát của hành pháp, giám sát của xã hội đối với hoạt động của Tòa án, thẩm phán, giảm bớt một bước tính khép kín trong quản lý Tòa án về tổ chức, góp phần nâng cao chất lượng và bảo đảm tốt hơn tính độc lập của thẩm phán. Cùng với đó, Luật cũng đã bổ sung một số quy định có tính nguyên tắc về chính sách đặc thù về lương, phụ cấp, về bảo vệ thẩm phán khi thi hành công vụ, về nghiêm cấm các hành vi cản trở, đe dọa, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của thẩm phán và thân nhân thẩm phán; về chính sách bảo đảm tôn trọng danh dự, uy tín, tôn vinh, khen thưởng thẩm phán.

2.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức của các cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện quyền tư pháp phù hợp với đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân

Thứ nhất, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội thông qua đồng thời với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân theo hướng tổ chức của Viện kiểm sát được thiết kế phù hợp với tổ chức Tòa án trong từng giai đoạn cải cách tư pháp; quy định rõ và cụ thể hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong khi thực hiện hai chức năng - thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong từng giai đoạn tố tụng hình sự và tố tụng dân sự; phân định rõ hơn thẩm quyền hành chính với thẩm quyền tố tụng, tăng cường trách nhiệm của kiểm sát viên nhằm bảo đảm thực thi nguyên tắc tranh tụng trong xét xử [3]. Các quy định về tiêu chuẩn, ngạch bậc, thi tuyển, tuyển chọn kiểm sát viên, chế độ lương, phụ cấp nghề, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật kiểm sát viên cũng được hoàn thiện, nâng cấp từ Pháp lệnh lên thành quy định của Luật.

Thứ hai, nâng cấp Pháp lệnh về Tổ chức cơ quan điều tra hình sự thành luật nhằm xây dựng hệ thống cơ quan điều tra tố tụng chuyên trách theo hướng thu gọn đầu mối, tăng cường sự chỉ đạo của công tố đối với điều tra, kiểm soát của Tòa án đối với tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan điều tra, điều tra viên, giảm tình trạng cắt khúc trong hoạt động tố tụng, đảm bảo quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam nói riêng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung trong suốt quá trình điều tra, không để lọt tội phạm và không làm oan sai người vô tội.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án theo hướng tăng cường trách nhiệm của Tòa án đối với việc kiểm soát quá trình thi hành bản án, quyết định đã tuyên; mở rộng phạm vi xã hội hóa hoạt động thi hành án, bao gồm cả thi hành án dân sự, hành chính và một số công đoạn của thi hành án hình sự với bước đi phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, từng địa bàn.

Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp. Việc hoàn thiện pháp luật tổ chức, hoạt động của các thiết chế bổ trợ tư pháp (luật sư, trợ giúp pháp lý, công chứng, giám định tư pháp, thừa phát lại, bán đấu giá tài sản…) và hành chính tư pháp (lý lịch tư pháp, hộ tịch, chứng thực…) là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời của quá trình đưa các quy định của Hiến pháp về thực hiện quyền tư pháp đi vào cuộc sống.

Việc hoàn thiện thể chế tổ chức, hoạt động bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp phải theo hướng đảm bảo sự phát triển bền vững về số lượng và chất lượng hoạt động của mỗi thiết chế nhằm cung cấp dịch vụ tốt nhất, đáp ứng yêu cầu hỗ trợ pháp lý của các cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện và bảo vệ các quyền, nghĩa vụ của mình trong lĩnh vực tư pháp, chẳng hạn như dịch vụ luật sư, trợ giúp pháp lý để hỗ trợ cá nhân thực hiện quyền nhờ người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong các quá trình tố tụng tư pháp; dịch vụ công chứng, thừa phát lại để hỗ trợ việc tạo lập, thu thập chứng cứ trong tố tụng hay xác minh điều kiện thi hành án... Cần thể chế hóa đầy đủ chính sách và trách nhiệm của Nhà nước về hỗ trợ pháp lý đặc biệt đối với những người, gia đình có công với đất nước, người nghèo, người dân tộc ở những vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế - xã hội, người yếu thế trong xã hội…, đồng thời thể chế, chiến lược và quy hoạch phát triển các thiết chế bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp phải phù hợp với chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.

2.3. Hoàn thiện pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng làm cơ sở cho việc thực hiện quyền tư pháp

Theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Bộ Tư pháp được phân công giúp Chính phủ soạn thảo, trình Quốc hội trong các năm 2014 - 2015 việc sửa đổi, bổ sung toàn diện hai bộ luật rường cột của hệ thống tư pháp hình sự và tư pháp dân sự, đó là Bộ luật Hình sự (sửa đổi) và Bộ luật Dân sự (sửa đổi), đảm bảo các định hướng cải cách tư pháp, cụ thể:

- Nâng cao tính nhân đạo, giáo dục, phòng ngừa của pháp luật hình sự, tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.

- Bảo đảm Bộ luật Dân sự là luật của quan hệ thị trường, ghi nhận một cách nhất quán, triệt để nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể trong quan hệ dân sự; bảo vệ các quyền dân sự về nhân thân và tài sản, đặc biệt là quyền, lợi ích chính đáng của bên yếu thế; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập các quan hệ dân sự; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế trong lĩnh vực dân sự.

Đổi mới mô hình và hoàn thiện pháp luật tố tụng bao gồm tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, pháp luật về tạm giữ, tạm giam… theo hướng tăng cường, bảo đảm tranh tụng dân chủ, công khai, bảo đảm quyền bào chữa, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong các quá trình tố tụng theo đúng tinh thần của Hiến pháp; việc hạn chế các quyền con người, quyền công dân của người tham gia tố tụng, bao gồm cả người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, người bị truy tố, xét xử, thi hành án chỉ bằng luật và chỉ trong các trường hợp đã được quy định tại Hiến pháp (khoản 2 Điều 14); xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát theo chức năng giữa các cơ quan tố tụng và cơ chế giám sát hiệu quả của cơ quan đại diện nhân dân, giám sát xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng.

2.4. Hoàn thiện thể chế về đào tạo nguồn nhân lực pháp luật, tư pháp phục vụ công cuộc cải cách tư pháp, phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013

Trên cơ sở Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Tư pháp đang khẩn trương phối hợp cùng Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các bộ: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Pháp lệnh Đào tạo các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư nhằm tạo khuôn khổ pháp lý chung cho hoạt động của các cơ sở đào tạo nghề nghiệp xét xử, kiểm sát, luật sư, đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về số lượng, chất lượng các chức danh tư pháp và việc mở rộng nguồn tuyển chọn, khả năng luân chuyển giữa các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư - những chức danh quyết định việc hiện thực hóa thành công nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và bảo đảm, bảo vệ trực tiếp quyền con người, quyền công dân trong quá trình thực hiện quyền tư pháp.

3. Trách nhiệm của Bộ, Ngành Tư pháp trong việc triển khai Hiến pháp, hoàn thiện thể chế về tổ chức hoạt động của các thiết chế tư pháp, bổ trợ tư pháp

Theo sự phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ, từ năm 2014 đến năm 2016, trong lĩnh vực xây dựng, hoàn thiện pháp luật liên quan đến thực hiện quyền tư pháp, Bộ Tư pháp được giao thực hiện 03 nhóm nhiệm vụ lớn là:

- Chủ trì soạn thảo nhiều luật, pháp lệnh, trong đó có các luật lớn, khó như đã nêu trên (Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Ban hành văn bản  quy phạm pháp luật, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Ban hành quyết định hành chính, Pháp lệnh Đào tạo các chức danh tư pháp…).

- Chủ trì, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện rà soát các luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật, trong đó có pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động tư pháp, tố tụng tư pháp theo Hiến pháp để đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, dừng thi hành, bãi bỏ các quy định trái với nội dung và tinh thần Hiến pháp năm 2013; Bộ Tư pháp ngoài việc rà soát các văn bản thuộc lĩnh vực quản lý của Ngành còn được giao trách nhiệm trực tiếp chủ trì rà soát văn bản pháp luật trong lĩnh vực quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

- Tham gia xây dựng, chủ trì thẩm định các dự án luật triển khai Hiến pháp do Chính phủ trình và là cơ quan thường trực của Hội đồng tư vấn thẩm định của Chính phủ đối với tất cả các dự án luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp do Chính phủ và các cơ quan ngoài Chính phủ trình, ví dụ như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Trưng cầu ý dân…

Nhận thức rõ đây là những trọng trách được Đảng, Quốc hội và Chính phủ giao phó, Bộ, Ngành Tư pháp xác định việc soạn thảo đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng các dự án luật, pháp lệnh được giao chủ trì, đồng thời tham gia có trách nhiệm và hiệu quả vào việc thẩm định, góp ý các dự án luật triển khai Hiến pháp là trọng tâm công tác của cả Bộ, Ngành từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội, Chính phủ khóa XIII, do đó, đã và đang đầu tư tập trung các nguồn lực để hoàn thành mục tiêu trên, góp phần thiết thực đưa Hiến pháp đi vào cuộc sống, phát huy hiệu lực, hiệu quả trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

 

PGS.TS. Hà Hùng Cường

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự

Bộ trưởng Bộ Tư pháp

 

(Bài viết đăng trên số chuyên đề “Bảo đảm quyền con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp” của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2014).

Chú thích:

[1]. Chẳng hạn, theo Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, quyền tư pháp trong xét xử hình sự thể hiện ở quyền của Tòa án xem xét kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cũng như về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do các cơ quan và người tiến hành, người tham gia tố tụng cung cấp; quyền của Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự… nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.

[2]. Nhiệm kỳ đầu của thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc bổ nhiệm vào ngạch thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.

[3]. Luật quy định khi có căn cứ cho rằng quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát là trái pháp luật thì kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ và phải kịp thời báo cáo với Viện trưởng; nếu Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành bằng văn bản thì kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành; Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.