Tổ chức thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay
Sign In

Tổ chức thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Tổ chức thi hành pháp luật là hoạt động đưa pháp luật thực định vào đời sống xã hội, làm cho pháp luật sau khi ban hành có hiệu lực thực thi trong thực tế. Tổ chức thi hành pháp luật gắn liền với quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước, là hoạt động thiết yếu của các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa phương. Bài viết đề cập đến các yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật ở Việt Nam.
1. Khái quát về tổ chức thi hành pháp luật
Tổ chức thi hành pháp luật là quá trình sắp xếp, phân công nhiệm vụ, quyền hạn, phối hợp hoạt động của các tổ chức, cá nhân để đạt được mục tiêu đưa pháp luật vào cuộc sống, hiện thực hóa các quy định pháp luật một cách chính xác, nghiêm chỉnh, thống nhất và hiệu quả. Đó là hoạt động có tính tổ chức, được tiến hành bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, nhưng trách nhiệm chính, chủ yếu vẫn là của các cơ quan hành chính nhà nước như Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương.
 Tổ chức thi hành pháp luật thường bắt đầu từ việc lên kế hoạch, sắp xếp các hoạt động và phân công trách nhiệm rõ ràng, cụ thể cho các chủ thể trong việc thi hành các hoạt động đó, đồng thời, sử dụng toàn bộ những yếu tố, phương tiện, công cụ và những điều kiện cần thiết được xác lập, tổ chức và sử dụng trong quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và hiệu quả, trong đó, bao gồm cả các hoạt động như công bố, thông báo cho các đối tượng phải thi hành biết được nội dung các quy định pháp luật. Trong một số trường hợp còn phải tiến hành những công việc như ban hành các quy định chi tiết, hướng dẫn việc thi hành, giải thích pháp luật, cung cấp phương tiện, ngân sách, bổ sung, đào tạo cán bộ, công chức... thì quy định pháp luật đã ban hành mới có khả năng được thực hiện. Chủ thể pháp luật bằng hành vi thực tế thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình làm cho các quy định pháp luật đi vào cuộc sống; kiểm tra, thanh tra, theo dõi, giám sát, tổng kết, đánh giá việc thi hành pháp luật của các chủ thể.
Tổ chức thi hành pháp luật là một quy trình hết sức phức tạp. Để thực hiện được một quy định pháp luật, thông thường đòi hỏi sự tham gia của rất nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau, thông qua nhiều thủ tục khác nhau, với những mối liên hệ đa chiều, tương tác về vật chất, về pháp lý, tổ chức, kỹ thuật, tâm lý và những mối liên hệ khác. Có thể chia hoạt động tổ chức thi hành pháp luật thành ba giai đoạn cơ bản sau:
Một là, chuẩn bị đưa văn bản, quy định pháp luật vào thi hành
Sau khi pháp luật được ban hành phải tiến hành thông báo đến các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thi hành hoặc có liên quan. Đối với các văn bản quan trọng như Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì phải có thủ tục công bố, đăng công báo, niêm yết công khai và được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, trừ trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước.
Tiếp đến là phải chuẩn bị các điều kiện pháp lý, điều kiện vật chất, nguồn nhân lực… để có thể thi hành được các quy định pháp luật đó như:
- Ban hành các văn bản văn bản giải thích, quy định chi tiết hướng dẫn thi hành (nếu thấy cần thiết). Một số quy định pháp luật, nhất là của các văn bản luật chỉ có thể thực hiện được trên thực tế khi chúng đã có sự quy định chi tiết, giải thích hoặc hướng dẫn thi hành của cơ quan có thẩm quyền.
- Ban hành văn bản, quy định về trình tự thủ tục thực hiện văn bản, quy định pháp luật đó (nếu chưa có).
- Tuyên truyền, phổ biến về nội dung, tinh thần của văn bản, quy định pháp luật tới các tổ chức, cá nhân và các đối tượng có liên quan để mọi người nhận thức chính xác, đầy đủ chúng, biết được những gì nên làm, những gì phải làm, những gì có thể làm được, những gì không được làm... từ đó mỗi chủ thể sẽ tự quyết định hành vi của mình, tự giác thực hiện pháp luật.
- Các hoạt động liên quan đến công tác tổ chức, cán bộ (nếu cần thiết) như: Phân công cơ quan hay những người có chức vụ, quyền hạn chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện văn bản hay quy định pháp luật đó; thành lập thêm những cơ quan hay bộ phận nếu chưa có; tuyển dụng hoặc đào tạo cán bộ, công chức nếu thấy cần thiết.
- Chuẩn bị về cơ sở vật chất, kỹ thuật để phục vụ cho việc thi hành quy định pháp luật.
Hai là, thực hiện các quy định pháp luật trên thực tế
Các quy định pháp luật chỉ có thể được thực hiện khi chúng trở thành hành vi thực tế, hợp pháp của mỗi chủ thể. Mỗi quy phạm pháp luật đều được dự liệu cho những tình huống nhất định, do vậy, nó chỉ được thực hiện khi trong thực tế tồn tại đầy đủ những hoàn cảnh và điều kiện mà quy phạm đã dự liệu. Hoạt động thực hiện pháp luật có thể được tiến hành thông qua: (i) Cơ chế đơn giản: Tổ chức, cá nhân trên cơ sở nhận thức nội dung, yêu cầu, đòi hỏi của các quy định pháp luật, khi gặp tình huống thực tế mà pháp luật đã dự liệu sẽ cân nhắc, tính toán để lựa chọn phương án thực hiện (chỉ đạo hành vi của mình) sao cho chính xác, phù hợp và có lợi nhất với cách xử sự mà quy định pháp luật đã chỉ dẫn. Hành vi thực tế đó có thể là không làm những gì mà pháp luật cấm; làm những gì mà pháp luật buộc phải làm; sử dụng những gì mà pháp luật cho phép. (ii) Cơ chế phức tạp: Có nhiều quy định pháp luật, khi tồn tại tình huống thực tế mà quy phạm pháp luật đã dự liệu, nhưng các chủ thể không có thẩm quyền lại không thể tự mình thực hiện được mà phải có sự can thiệp, tổ chức giúp đỡ của chủ thể có thẩm quyền mới có thể thực hiện được (chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động để các tổ chức, cá nhân không có thẩm quyền có thể thực hiện được quy định của pháp luật).
Ba là, kiểm tra, giám sát, theo dõi và tổng kết, đánh giá việc thi hành pháp luật
Trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật cần thường xuyên tiến hành các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát, theo dõi, tổng kết, đánh giá để có những thông tin cần thiết về quá trình thi hành pháp luật nhằm phát hiện những lỗ hổng của pháp luật, những quy định pháp luật chưa phù hợp, kém hiệu quả, các cơ quan tổ chức thi hành pháp luật sẽ kiến nghị để công tác xây dựng pháp luật được hoàn thiện, bảo đảm cho pháp luật ngày càng có hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu quản lý, xây dựng và phát triển đất nước. Nếu phát hiện những sai phạm thì cần có những biện pháp xử lý kịp thời để pháp luật được thực hiện hiệu quả.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, có thể kể đến một số yếu tố quan trọng như:
2.1. Chất lượng hệ thống pháp luật thực định
Chất lượng của hệ thống pháp luật thực định bảo đảm cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, đồng thời, cho phép dự báo được khả năng hiện thực hóa các quy định pháp luật trong đời sống xã hội. Nếu chất lượng của hệ thống pháp luật thấp, tính khả thi kém thì việc tổ chức thi hành pháp luật sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có những quy định pháp luật khó có thể thi hành được trên thực tế.
Chất lượng của hệ thống pháp luật thực định được thể hiện ở cả hình thức và nội dung của nó như tính toàn diện, đồng bộ, tính thống nhất, tính phù hợp, ngôn ngữ và kỹ thuật xây dựng pháp luật hiện đại, tính khả thi, đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi mà cuộc sống đang đặt ra. Pháp luật phải quy định một cách hài hòa về lợi ích cơ bản của tất cả các lực lượng chủ yếu trong xã hội sao cho có thể chấp nhận được; phù hợp với trình độ phát triển của đất nước ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định; hệ thống pháp luật quốc gia phải được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ quốc tế, tiếp thu và sử dụng có hiệu quả kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước khác trên thế giới; phù hợp với các điều kiện như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy định hoặc văn bản pháp luật đó, trình độ văn hóa và kiến thức pháp lý của nhân dân... Có thể nói, nếu pháp luật được ban hành kịp thời, đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với các quy luật khách quan, với điều kiện kinh tế - xã hội, rõ ràng, chính xác thì việc tổ chức thi hành sẽ đạt hiệu quả cao, còn nếu pháp luật quy định không rõ ràng hoặc chồng chéo thì việc tổ chức thi hành pháp luật sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn.
2.2. Năng lực của chủ thể tổ chức thi hành pháp luật
Năng lực của các chủ thể tổ chức thi hành pháp luật là điều kiện bảo đảm cho hoạt động tổ chức thi hành pháp luật đạt kết quả cao và năng lực đó cũng sẽ được phát triển, hoàn thiện ngay trong chính quá trình các chủ thể tham gia thực hiện các công đoạn của quá trình tổ chức thi hành pháp luật. Nếu chủ thể có thẩm quyền tổ chức thi hành pháp luật có đủ năng lực thì việc tổ chức sẽ hiệu quả, ngược lại, nếu năng lực của chủ thể không đủ thì hiệu quả việc tổ chức thi hành pháp luật sẽ không cao.
 Các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật phải được tổ chức một cách khoa học, có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận để tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn, cản trở lẫn nhau trong công việc của các cơ quan này. Các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật ngoài việc bảo đảm tính độc lập, chủ động, sáng tạo của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận, đồng thời, phải bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, thống nhất, nhịp nhàng giữa các cơ quan, các bộ phận cùng tham gia tổ chức thi hành pháp luật cũng như sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan tổ chức thi hành pháp luật với các cơ quan khác của Nhà nước hoặc với các tổ chức xã hội.
2.3. Trình độ phát triển của nền kinh tế đất nước, các nguồn lực và điều kiện vật chất, kỹ thuật để phục vụ công tác tổ chức thi hành pháp luật
 Trình độ phát triển kinh tế của đất nước là cơ sở để tạo lập các nguồn lực phục vụ công tác tổ chức thi hành pháp luật, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Sự phát triển kinh tế và những điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết không chỉ bảo đảm cho hoạt động tổ chức thi hành pháp luật có hiệu quả mà còn có ảnh hưởng đến cả hiệu quả thực hiện pháp luật của các chủ thể khác trong xã hội. Các văn bản pháp luật, quy định pháp luật để được thi hành trong thực tế đều đòi hỏi chi phí nhất định, thậm chí có những văn bản, quy định đòi hỏi phải chi phí rất lớn về tiền của, công sức và những trang thiết bị vật chất - kỹ thuật nhất định. Vì thế, kinh phí, các nguồn lực, điều kiện vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động tổ chức thi hành pháp luật là một trong những yếu tố cần thiết, quan trọng để việc tổ chức thi hành pháp luật đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, đời sống vật chất và tinh thần của những người trực tiếp tổ chức thi hành pháp luật cũng như gia đình họ cũng có thể ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật.
2.4. Ý thức pháp luật trong xã hội
Ý thức pháp luật là điều kiện cần thiết đối với chủ thể tổ chức thi hành pháp luật, chủ thể thi hành pháp luật, đối với tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cũng như mọi người dân, đối với chủ thể quản lý và cả chủ thể bị quản lý. Khi đã có những tri thức pháp luật cần thiết các chủ thể pháp luật sẽ có những hành vi pháp luật tích cực, biết sử dụng pháp luật vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình cũng như của Nhà nước và xã hội, đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật trong xã hội.
 Các chủ thể có nhiệm vụ tổ chức thi hành pháp luật cần có ý thức pháp luật để tổ chức thi hành pháp luật hợp pháp, có cơ sở pháp lý. Các tổ chức, cá nhân có ý thức pháp luật để có thái độ đúng mực đối với cơ quan, người đại diện nhà nước, biết được các quyền, nghĩa vụ của mình mà pháp luật quy định để thực hiện... Để việc tổ chức thi hành pháp luật được thuận lợi đòi hỏi các tổ chức, cá nhân không chỉ có tri thức pháp luật mà còn phải có tâm lý pháp luật đúng đắn, phù hợp, có niềm tin vào pháp luật, vào chính quyền, vào công lý, ủng hộ, giúp đỡ các cơ quan nhà nước, những người có nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thi hành pháp luật...
2.5. Môi trường mà pháp luật được tổ chức thi hành
Hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật còn chịu ảnh hưởng của môi trường mà trong đó pháp luật được thực hiện. Đó là những điều kiện xã hội và tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật như chất lượng và những đặc điểm của dân cư (trình độ văn hóa, mặt bằng dân trí, ý thức pháp luật, thói quen và lối sống theo pháp luật... của dân cư). Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng đối với các hoạt động pháp luật, nhất là hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể quần chúng đối với hoạt động pháp luật. Tác động của các yếu tố như đạo đức, tập quán và những công cụ điều chỉnh khác đến hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Tác dụng của các hoạt động kiểm tra, giám sát đối với quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, cũng như việc xử lý các hiện tượng vi phạm pháp luật trên thực tế cũng có ảnh hưởng đến hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Ngoài ra, những điều kiện về địa lý, khí hậu như địa bàn nơi dân cư sinh sống (vùng núi, vùng đồng bằng, thành thị hay vùng sâu, vùng xa...), thậm chí cả tình hình thiên tai, dịch bệnh cũng có ảnh hưởng tới việc tổ chức thi hành pháp luật. Nếu môi trường mà pháp luật được tổ chức thi hành thuận lợi thì hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật sẽ cao và ngược lại.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật
Để nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay, cần phải chú trọng những giải pháp cơ bản sau:
Một là, đề cao, tôn vinh vị thế của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước[1]. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học pháp lý để phục vụ các hoạt động xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật và hoạt động xét xử ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống, nhất là trong tiến trình toàn cầu hóa, mở cửa, hội nhập quốc tế của đất nước.
Thường xuyên rà soát, tổng kết, đánh giá thực tiễn pháp luật để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của đất nước phù hợp với cơ chế thị trường, các cuộc cách mạng công nghiệp, từng bước nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật cần được ban hành toàn diện, đồng bộ, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của đất nước và tâm lý của con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay với trình độ kỹ thuật pháp lý hiện đại. Khi xây dựng pháp luật nhất thiết phải xuất phát từ những kinh nghiệm, những hoạt động pháp lý thực tiễn sao cho các quy định của pháp luật phải có khả năng được thực hiện trên thực tế. Quy định và có biện pháp xử lý kịp thời đối với cơ quan, cá nhân chậm trễ hoặc có sai trái trong việc tổ chức thi hành pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh hay đời sống của nhân dân.
Ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp luật. Đẩy mạnh công tác giải thích pháp luật, nhất là giải thích pháp luật chính thức để các tổ chức và cá nhân trong xã hội có được sự nhận thức và thực hiện thống nhất.
Hai là, củng cố về tổ chức, năng lực và nâng cao tinh thần, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tổ chức thi hành pháp luật
Tổ chức thi hành pháp luật là nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức. Do vậy, cần củng cố các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với các cơ quan này. Tiếp tục xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch[2]. Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại để không ngừng nâng cao kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức tổ chức thi hành pháp luật cho cán bộ, công chức. Thời gian tới, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân[3]. Quy định và có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với các cơ quan, cá nhân có nhiệm vụ tổ chức thi hành pháp luật nhưng lại không tổ chức dẫn đến quy định hay văn bản pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không đúng trên thực tế.
Ba là, triển khai mạnh mẽ và thường xuyên công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý cho đảng viên, cán bộ, công chức và mọi tầng lớp nhân dân
 Đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý cho đảng viên, cán bộ, công chức và mọi tầng lớp nhân dân. Phát huy tính năng động, sáng tạo của các tổ chức chính trị, xã hội - nghề nghiệp vào việc thiết lập kỷ cương, trật tự an toàn xã hội, xây dựng lối sống theo pháp luật trong các cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội. Khuyến khích sự chủ động, tích cực của các tổ chức, cá nhân đối với các hoạt động pháp luật. Nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân về quyền, nghĩa vụ, bổn phận về những lợi ích của mình, của cộng đồng, của xã hội.
Bốn là, đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật
Hoạt động kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật cần được tiến hành thường xuyên và hiệu quả. Phát hiện kịp thời những khiếm khuyết, yếu kém trong quản lý nhà nước, trong tổ chức thi hành pháp luật để khắc phục, đồng thời, phải có những biện pháp xử lý nghiêm minh những chủ thể có hành vi cố ý không tổ chức thi hành pháp luật hoặc tổ chức thi hành pháp luật không đúng. Để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát, cần kết hợp hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước với kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội và của nhân dân; tăng cường công tác giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan tư pháp; phát huy sự giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân đối với hoạt động tổ chức thi hành pháp luật.
Đấu tranh không khoan nhượng và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Các biện pháp trừng phạt của pháp luật phải được áp dụng nghiêm minh, đủ sức răn đe, cải tạo của đối với các chủ thể vi phạm pháp luật và có tác dụng cảnh báo đối với các chủ thể khác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi cán bộ, ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử theo pháp luật... Cấm bao che hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức nào[4].
Năm là, thực hành tiết kiệm, tăng năng xuất lao động trong hoạt động tổ chức thi hành pháp luật và các hoạt động nhà nước khác
Thực hành tiết kiệm, tăng năng xuất lao động trong tổ chức thi hành pháp luật là việc làm thiết thực để nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Các tổ chức, cá nhân làm công tác tổ chức thi hành pháp luật phải luôn quán triệt ý thức thực hành tiết kiệm cho Nhà nước, cho các tổ chức, cá nhân sao cho đạt được kết quả các nhất với chi phí ít nhất. Khẩn trương nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội[5] cho đội ngũ cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật, đồng thời, cần ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào các hoạt động tổ chức thi hành pháp luật, tìm ra những phương án tối ưu trong điều chỉnh pháp luật, từng bước giảm bớt những chi phí về vật chất, tinh thần và những chi phí khác cho các hoạt động pháp luật.
Củng cố các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động pháp luật như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, quy định của các tổ chức xã hội, dư luận xã hội… để duy trì trật tự xã hội tạo điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt.
Sáu là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tổ chức thi hành pháp luật
Để bảo đảm tính hiệu quả trong lãnh đạo công tác tổ chức thi hành pháp luật, bộ máy của Đảng phải được tổ chức, sắp xếp tinh gọn, biên chế phải giảm tới mức tối đa, nhất là đội ngũ đảng viên chuyên trách; lựa chọn những đảng viên thực sự có tài, có năng lực vào các cơ quan của Đảng; thực hiện việc phân công đúng người, đúng việc, luôn đổi mới tác phong, lề lối làm việc gắn với mỗi hoàn cảnh, điều kiện cụ thể; cán bộ trực tiếp lãnh đạo công tác tổ chức thi hành pháp luật có sự hiểu biết cần thiết về pháp luật, hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Lãnh đạo công tác tổ chức thi hành pháp luật cần chú trọng hoạch định chiến lược, chính sách và những mục tiêu cơ bản trong công tác tổ chức thi hành pháp luật; phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, có năng lực để giới thiệu họ vào các chức vụ quan trọng trong các cơ quan có nhiệm vụ tổ chức thi hành pháp luật; tiến hành thường xuyên hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng về công tác tổ chức thi hành pháp luật.
Các tổ chức Đảng và các đảng viên phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, có phương thức lãnh đạo khoa học và luôn gương mẫu trong việc thực hiện đầy đủ, nghiêm minh các quy định pháp luật là những tấm gương để nhân dân noi theo.
GS.TS. Nguyễn Minh Đoan
Đại học Luật Hà Nội
 
 
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội , 2021, tr. 118.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 176.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 178 - 179.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 121.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 285.