Biện pháp xử phạt vi phạm hành chính - Công cụ hiệu quả để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Sign In

Biện pháp xử phạt vi phạm hành chính - Công cụ hiệu quả để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Bài viết này làm rõ những lợi thế của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng xử phạt vi phạm hành chính so với việc chủ sở hữu tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình hoặc thông qua biện pháp dân sự hay biện pháp hình sự, từ đó, đề xuất một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
 
1. Dẫn nhập
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng[1]. Quyền sở hữu trí tuệ với đặc trưng là tồn tại dưới dạng thông tin thể hiện kết quả của quá trình làm việc, sáng tạo của tổ chức, cá nhân, có khả năng mang lại lợi ích về vật chất (quyền tài sản) và danh tiếng (quyền nhân thân) đối với chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ. Từ đặc điểm trên, quyền sở hữu trí tuệ là đối tượng dễ bị tác động, dễ bị xâm hại với nhiều hình thức biểu hiện tinh vi, khó phát hiện. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ xâm phạm đến quyền lợi của chủ sở hữu mà còn làm ảnh hưởng đến môi trường xã hội, quyền lợi của những người thụ hưởng các giá trị mà quyền sở hữu trí tuệ mang lại. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về bản chất là hành vi vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng tiêu cực đến thực hiện quyền sở hữu trí tuệ đã được pháp luật bảo hộ, đồng thời xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ cần phải được xử lý nghiêm minh. Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan[2]. Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: (i) Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội; (ii) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; (iii) Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mạo hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này[3].
Cụ thể hóa quy định về xử lý vi phạm hành chính xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định quy định hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn, phòng ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong điều kiện việc thương mại hoá các kết quả sở hữu trí tuệ đang ngày càng trở nên phổ biến và có ý nghĩa quan trọng.
2. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Để áp dụng biện pháp hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan có thẩm quyền cần xem xét các điều kiện sau: (i) Căn cứ pháp lý để áp dụng biện pháp hành chính đối với một vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; (ii) Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục cho phép chủ thể quyền sở hữu trí tuệ yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan thực thi áp dụng biện pháp hành chính; trình tự, thủ tục cho phép công dân tố cáo và đề nghị xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp hành chính; (iii) Quy định pháp luật về trình tự, thủ tục cho phép cơ quan thực thi chủ động phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ; (iv) Cơ quan có thẩm quyền hoặc người có thẩm quyền được pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền xử phạt khi xử lý một vụ việc bằng biện pháp hành chính; (v) Sự hỗ trợ của cơ quan giám định thông qua kết luận giám định do chủ thể quyền cung cấp hoặc do cơ quan thực thi trưng cầu giám định khẳng định có hành vi xâm phạm quyền, hoặc có yếu tố xâm phạm quyền, hoặc hàng hóa chứa đối tượng nghi ngờ xâm phạm là giả mạo nhãn hiệu hoặc giả mạo chỉ dẫn địa lý hoặc là hàng hóa sao chép lậu[4].
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính thông qua việc áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là việc áp dụng biện pháp chế tài đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành đã có những quy định nền tảng cho việc nhận diện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành chính, biện pháp xử phạt chính, biện pháp xử phạt bổ sung. Theo đó, các biện pháp xử phạt chính bao gồm phạt cảnh cáo và phạt tiền. Tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung, như tịch thu hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ hoặc đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm[5]. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả như buộc tiêu hủy hoặc phân phối, đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ; buộc phải đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hóa quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; buộc tái xuất đối với hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hóa[6].
3. Hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp xử phạt hành chính trong mối tương quan với việc áp dụng biện pháp dân sự và biện pháp hình sự
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một quá trình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau từ việc quy định hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đến các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Để thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sáng tạo ra các sản phẩm sở hữu trí tuệ, cũng như thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, công tác đấu tranh phòng ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cần phải được đẩy mạnh hơn nữa. Hiện nay, ngoài việc quy định đầy đủ hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhất là tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, xâm  phạm  bí  mật  kinh  doanh đang diễn ra ngày càng phổ biến ở nước ta[7]. Để bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ, cần sử dụng đồng thời nhiều biện pháp, từ sự tự bảo vệ của chủ sở hữu, đến bảo vệ bằng biện pháp dân sự, hình sự và biện pháp xử phạt hành chính. Tuy nhiên, so với biện pháp tự bảo vệ của chủ sở hữu, bảo vệ bằng biện pháp dân sự hay biện pháp hình sự, biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm được tiến hành thường xuyên, liên tục, do nhiều cơ quan nhà nước cùng thực hiện theo quy định của pháp luật để thực thi chức năng, nhiệm vụ quản lý về quyền sở hữu trí tuệ. Từ nội dung quyền sở hữu trí tuệ gồm quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng, có thể thấy rằng, lĩnh vực này chịu sự quản lý nhà nước bởi ba cơ quan: (i) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý nhà nước về quyền tác giả và quyền liên quan; (ii) Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp; (iii) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đảm nhiệm quản lý nhà nước về giống cây trồng. Bên cạnh đó, các cơ quan thanh tra, quản lý thị trường, hải quan, công an, Ủy ban nhân dân các cấp[8] trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Theo quy định hiện hành, không chỉ cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung, mà còn cả cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyên môn và các cơ quan nhà nước khác đều có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện với trình tự, thủ tục đơn giản, nhanh chóng, có thể áp dụng nhiều biện pháp để ngăn chặn ngay hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ có thể áp dụng biện pháp “buộc chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ” đối với hành vi vi phạm đang diễn ra và được thực hiện bằng lời nói, còi, hiệu lệnh, văn bản hoặc hình thức khác theo quy định pháp luật. Về thủ tục xử lý vi phạm hành chính, Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định hai thủ tục xử phạt là xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản. Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, địa chỉ của cá nhân vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm xảy ra vi phạm; chứng cứ và tình tiết liên quan đến việc giải quyết vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định xử phạt; điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng. Trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt[9]. Xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không thuộc trường hợp xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản. Việc xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản phải được người có thẩm quyền xử phạt lập thành hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính. Hồ sơ bao gồm biên bản vi phạm, quyết định xử phạt hành chính, các tài liệu, giấy tờ có liên quan và phải được đánh bút lục. Hồ sơ phải được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ[10].
Khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh có hay không có vi phạm hành chính; người thực hiện hành vi vi phạm hành chính, lỗi, nhân thân của cá nhân vi phạm hành chính; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; tính chất, mức độ thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra; có rơi vào trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính hay không và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc xem xét, quyết định xử phạt[11]. Với quy định này của Luật Xử lý vi phạm hành chính cho thấy, trình tự, thủ tục để xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành đơn giản, nhanh chóng, có thể xử lý ngay hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, góp phần rất quan trọng trong việc giảm thiểu thiệt hại cho chủ sở hữu.
Thứ ba, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng xử phạt vi phạm hành chính còn được hỗ trợ bằng việc truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có dấu hiệu tội phạm. Ở giai đoạn xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự[12]. Trong quá trình thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu hành vi vi phạm được phát hiện có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đó và trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày tạm đình chỉ phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự; trường hợp đã thi hành xong quyết định xử phạt thì người đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự[13].
Bộ luật Hình sự năm 2015 giữ nguyên các tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; bãi bỏ tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 1999 vì về bản chất, hành vi vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là quyết định hành chính nên nếu chủ thể đăng ký cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp không đồng ý với quyết định của cơ quan có thẩm quyền cấp, thì có thể giải quyết theo thủ tục khiếu nại hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Bộ luật Hình sự năm 2015 không bổ sung thêm tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nào mới, chỉ có một số chỉnh sửa về nội dung mô tả tội phạm. Tuy nhiên, nội hàm tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ chưa dựa trên quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (quy định về quyền sở hữu trí tuệ và việc bảo hộ các quyền đó, song hành vi xâm phạm quyền đối với giống cây trồng chưa được tội phạm hóa)[14]. Đây là điều cần lưu ý khi chủ sở hữu quyền đối với giống cây trồng bị xâm phạm chỉ có thể bảo vệ bằng biện pháp xử phạt hành chính hoặc biện pháp dân sự.
Thứ tư, quyết định xử phạt vi phạm hành chính tạo lập cơ sở pháp lý cho việc yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu thông qua áp dụng các biện pháp dân sự. Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành quy định, Tòa án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: (i) Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; (ii) Buộc xin lỗi, cải chính công khai; (iii) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; (iv) Buộc bồi thường thiệt hại; (v) Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hóa, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ[15]. Để yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp dân sự nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu quyền phải cung cấp chứng cứ, chứng minh về tư cách chủ sở hữu cũng như hành vi vi phạm của người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ[16]. Nói cách khác, chứng minh tư cách chủ sở hữu, chứng minh hành vi vi phạm là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp dân sự theo yêu cầu của chủ sở hữu. Thông qua quyết định xử phạt vi phạm hành chính - “Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật”, chủ sở hữu tài sản trí tuệ không phải chứng minh theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Có thể nói, những phân tích về lợi thế của biện pháp xử phạt vi phạm hành chính cho thấy, đây là biện pháp có nhiều ưu điểm, nhất là việc ngăn chặn, chấm dứt kịp thời hành vi xâm phạm để tránh thiệt hại cho chủ sở hữu tài sản trí tuệ. Đồng thời, quyết định xử phạt vi phạm hành chính sẽ trở thành nguồn chứng cứ không cần phải chứng minh trong trường hợp chủ sở hữu tài sản trí tuệ có nhu cầu áp dụng biện pháp dân sự để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Ngoài ra, từ việc xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm, nếu phát hiện dấu hiệu tội phạm dù ở giai đoạn đang xử lý hay đã xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan có thẩm quyền xử phạt phải chuyển hồ sơ sang cho cơ quan điều tra để làm rõ có hay không có hành vi phạm tội để thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự.
TS. Bùi Hữu Toàn
Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
 
[1]. Khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ.
[2]. Điều 199 Luật Sở hữu trí tuệ.
[3]. Khoản 1 Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ.
[4]. Lê Quang Vinh, Thực thi, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam bằng biện pháp hành chính, truy cập tại địa chỉ http://bross.vn/newsletter/ip-news-update/Thuc-thi-bao-ve-quyen-so-huu-tri-tue-o-Viet-Nam-bang-bien-phap-hanh-chinh-1802.
[5]. Khoản 2 Điều 214 Luật Sở hữu trí tuệ.
[6]. Khoản 3 Điều 214 Luật Sở hữu trí tuệ.
[7]. Viên Thế Giang, Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật hình sự - Biện pháp bảo đảm cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Chuyên san Kinh tế - Luật và Quản lý, tập 2, Số Q.1 - 2018, tr. 21 - 22.
[8]. Xem: Khoản 5 Điều 10, khoản 1 Điều 199, khoản 1 Điều 200 và Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ.
[9]. Xem: Điều 56 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[10]. Xem: Điều 57 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[11]. Khoản 1 Điều 59 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[12]. Khoản 1 Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[13]. Khoản 2 Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
[14]. Viên Thế Giang, Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng pháp luật hình sự - Biện pháp bảo đảm cho phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, Chuyên san Kinh tế - Luật và Quản lý, tập 2, Số Q.1 - 2018, tr. 26.
[15]. Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ.
[16]. Xem: Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ.