Hiện trạng pháp luật Việt Nam về mua bán quyền phát thải khí nhà kính
Sign In

Hiện trạng pháp luật Việt Nam về mua bán quyền phát thải khí nhà kính

Là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 6,84% trong giai đoạn 2016 - 2020 và bước vào giai đoạn 2021 - 2025 với nhiều triển vọng gia tăng năng suất và cải thiện thu nhập đầu người trên mức trung bình[1], Việt Nam cũng là một trong các quốc gia được đánh giá là dễ bị tổn thương bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan có nguyên nhân từ biến đổi khí hậu. Báo cáo chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu (Global Climate Risk Index) năm 2020 do tổ chức môi trường Germanwatch (Liên bang Đức) công bố thì Việt Nam xếp hạng thứ 06 trong số các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nhất trên toàn cầu trong giai đoạn 1999 - 2018[2].
Điều đáng nói, biến đổi khí hậu toàn cầu có một phần nguyên nhân xuất phát từ hoạt động phát thải khí nhà kính và các nỗ lực hạn chế tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu sẽ có hiệu quả khi các quốc gia trên thế giới cùng nhau phối hợp trong một cơ chế chung để giảm phát thải. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, một giải pháp được vận dụng triệt để trên phạm vi toàn cầu và bước đầu tại Việt Nam đó là xây dựng một thị trường “thương mại phát thải khí nhà kính” (Carbon Emission Trading) ở phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, trong khi thế giới có những bước tiến mạnh mẽ để nhanh chóng hiện thực hóa thị trường này và hoàn thiện các quy định liên quan thì tại Việt Nam dường như chưa thực sự quan tâm. Điều này càng trở thành một lực cản vô hình khi Việt Nam đang là một trong những thị trường trọng điểm và tiềm năng về cung cấp quyền phát thải cho thị trường thế giới với lượng chứng chỉ phát thải được giao dịch ngày càng tăng. Trong phạm vi bài viết, tác giả sẽ đề cập tới nghịch lý đang diễn ra này cũng như những nhiệm vụ và giải pháp đặt ra cho hệ thống pháp lý Việt Nam trong thời gian tới.
1. Chứng chỉ mua bán phát thải khí nhà kính và yêu cầu hình thành thị trường mua bán phát thải khí nhà kính tại Việt Nam
1.1. Chứng chỉ mua bán phát thải khí nhà kính
Thuật ngữ chứng chỉ mua bán phát thải khí nhà kính lần đầu tiên được ghi nhận cụ thể trong pháp luật Việt Nam tại khoản 3 Điều 2 Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch (Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg): Chứng chỉ CERs là chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính được chứng nhận (CERs), là các giảm phát thải được chứng nhận do Ban chấp hành quốc tế về CDM cấp cho dự án CDM[3]. 1 CER được xác định bằng một tấn khí CO2 tương đương.
CERs thực tế không phải là số liệu trên giấy tờ mà phản ánh thực tế kết quả tính toán lượng giảm phát thải của cơ sở và được chứng nhận bởi các cơ quan chuyên môn. Để xác định lượng giảm thải thực tế, cần thiết phải tính toán “mức phát thải cơ sở”, chính là ngưỡng phát thải mà cơ sở phát thải ra trước khi có kế hoạch giảm phát thải. “Mức phát thải cơ sở” bao gồm mức độ hành động của cơ sở và tỷ lệ phát thải trung bình trong 02 năm liên tục trước và sau khi trình kế hoạch giảm thải hoặc bao gồm thống kê việc phát thải những năm gần đây được sử dụng.
Đồng thời, CERs chỉ được tạo ra khi các cơ sở hoạt động nào đó đóng cửa hoặc tự nguyện cắt giảm lượng khí thải và chỉ những hoạt động giảm phát thải mang tính lâu dài và không thay đổi mới có thể được chứng nhận là CERs. Các kế hoạch giảm phát thải chỉ mang tính chất tạm thời và không được khuyến khích sẽ không được chứng nhận là CERs. Đây có thể được coi là một phần của quá trình cho phép, các cơ sở mới hoặc mở rộng phải đạt được CERs để bù đắp lượng khí thải mới hoặc tăng lên trước khi xây dựng hoặc điều chỉnh các nguồn gây ô nhiễm không khí tại cơ sở. Như vậy, CERs được tạo ra bởi sự đóng cửa hoặc cắt giảm tự nguyện của một cơ sở sản xuất có thể được bán cho một cơ sở mới hoặc mở rộng khác. Điều đáng nói là CERs là chứng chỉ được công nhận toàn cầu, do vậy bất kể chứng nhận đó có nguồn gốc hay được thực hiện tại quốc gia nào cũng được chấp nhận đã đóng góp giảm phát thải hiệu ứng nhà kính của quốc gia. Ví dụ, quốc gia A hay tổ chức B mua được 1 triệu CER tại một quốc gia nào đó thì đồng nghĩa với việc quốc gia A đã thực hiện cam kết giảm được 1 triệu tấn khí gây hiệu ứng nhà kính mà không nhất thiết phải thực hiện ngay tại quốc gia mình. Ngoài ra, việc mua bán, trao đổi CERs cũng trở thành một cơ chế cung - cầu tự nhiên, góp phần đạt được mục tiêu kép là: Giá trị kinh tế và giá trị bền vững.
Trên thực tế, CERs có liên quan chặt chẽ tới cơ chế phát triển sạch (CDM)[4]. CERs có thể hiểu là thành quả mà các dự án đáp ứng tiêu chí CDM đạt được và tự chủ trong việc chuyển những quyền lợi đó thành giá trị kinh tế. Ví dụ: Một dự án trồng rừng đạt tiêu chí CDM sẽ tạo ra những CERs để bán lại cho những đối tác đang có nhu cầu phát thải. Đây chính là nguyên lý để hình thành thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính.
Trước đó, “mua bán quyền phát thải khí nhà kính” xuất phát từ một ý tưởng vào những năm 1960 của các nhà kinh tế học là Ronald Coase và John Dales. Cụ thể, cách tiếp cận của nhà nghiên cứu này là các đối tượng được hưởng quyền phát thải khí chỉ được thải ra một số lượng cụ thể các chất ô nhiễm trong một khoảng thời gian giới hạn và quyền phát thải khí có thể được chuyển nhượng nếu như các cơ quan quản lý xác định được một mức trần cho lượng phát thải tổng thể…[5]. Ý tưởng này tiếp tục được nhắc lại vào những năm 1995 ở Hoa Kỳ với mô hình trao đổi “quota khí SO2” thay vì khí CO2. Những năm đầu thế kỷ XXI, những lý thuyết này mới lại được vận dụng trong Nghị định thư Kyoto của Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu năm 1997 (Nghị định thư Kyoto). Trên thế giới hiện nay, thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính được vận hành dựa trên một hệ thống “cap and trade” được đề cập trong Nghị định thư Kyoto và theo đó, thị trường mua bán quyền phát thải áp dụng một đơn vị tính chung cho giá trị 1 tấn CO2 (AAU: Assigned amount unit). Hiện nay trên thế giới đang tồn tại song song nhiều thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính như UK-ETS của Anh; EU-ETS của châu Âu… việc công nhận lẫn nhau các giao dịch mua bán quyền phát thải cũng như giám định chuẩn CDM chưa được thống nhất chung và thiếu kiểm soát. Đối với những khu vực có truyền thống như Anh, Mỹ, châu Âu thì việc đạt chuẩn không khó nhưng tại những thị trường mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam việc thực thi các quy định quốc tế này chưa được coi trọng và bảo đảm.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, dự án CDM đầu tiên được triển khai ở hai bãi chôn lấp rác Phước Hiệp 1 (Củ Chi) và Đông Thạnh (Hóc Môn). Theo thỏa thuận giữa các đối tác trong dự án CDM, giá bán 1 CER (tương đương 1 tấn CO2 quy đổi) là 14 USD. Theo tính toán trong giai đoạn 2008 - 2012, tại hai bãi rác trên sẽ thu được khoảng 4 triệu tấn CO2 (ở dạng quy đổi tương đương), thì tổng doanh thu của dự án khoảng 56 triệu USD. Thông qua dự án nói trên, hệ thống thu khí và xử lý khí tại các bãi rác được xây dựng, lượng khí thu được sẽ dùng làm nhiên liệu đốt để phát điện, giảm được một lượng khí gây hiệu ứng nhà kính phát thải vào môi trường.
Tương tự như vậy, Việt Nam hiện có khoản 255 dự án CDM và 12 chương trình hoạt động (bao gồm nhiều hoạt động có cùng loại hình, quy mô hoạt động) được Ban chấp hành quốc tế về phát triển sạch công nhận. Những dự án, chương trình này sau khi được công nhận hoàn toàn được phép trao đổi, mua bán trên thị trường cacbon toàn cầu[6].
1.2. Yêu cầu hình thành thị trường mua bán phát thải khí nhà kính tại Việt Nam
Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu được thông qua tại hội nghị Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu được biết tới như bước tiến của thế giới nhằm đạt được một văn kiện pháp lý toàn cầu đầu tiên ràng buộc trách nhiệm của tất cả các bên về các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu. Thỏa thuận đặt mục tiêu giữ cho nhiệt độ trung bình toàn cầu không tăng quá 2°C và phương án lý tưởng hơn là không quá 1,5°C. Nhưng thực tế là những mục tiêu kể trên với những cam kết và nỗ lực đóng góp của mỗi quốc gia (thể hiện trong các NDCs)[7] nhằm hiện thực hóa mục tiêu lại không tương đồng và có xu hướng suy yếu sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump quyết định rút khỏi Thỏa thuận Paris năm 2019. Thế giới hiện nay đều thống nhất nhận định chung về hiện trạng phát thải toàn cầu “đang ở mức cao đáng báo động” và “nếu khoảng cách phát thải không được khỏa lấp vào năm 2030, thì sẽ vô cùng khó giữ mục tiêu nóng lên toàn cầu dưới 2°C”[8].
Trong khu vực, Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia đi đầu trong phê chuẩn Thỏa thuận Paris và tham gia tích cực vào các Hội nghị Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu. Sau sự kiện COP 24, 47/63 tỉnh thành của Việt Nam đã đưa ra các kế hoạch cụ thể để hiện thực hóa Thỏa thuận Paris và Việt Nam là một trong những quốc gia tích cực nhất trong ASEAN về triển khai NDCs. Tuy vậy, phát thải khí nhà kính của Việt Nam lại đang bước vào giai đoạn xu hướng gia tăng với tốc độ rất cao. Theo dự thảo NDC của Việt Nam của năm 2020, Việt Nam đã cam kết giảm phát thải hàng năm bằng nguồn lực trong nước ở mức 8% tới năm 2030 so với kịch bản thông thường (BAU) hoặc 25% với điều kiện có hỗ trợ quốc tế. Những cam kết này cũng cho thấy Việt Nam đã tiệm cận hoặc vượt “hạn mức” phát thải ước tính hợp lý trên đầu người.
Trong Kịch bản thông thường (BAU)[9], trong đó Việt Nam sẽ không có hành động chủ đích để giảm nhẹ phát thải, tổng lượng phát thải hàng năm sẽ tăng gấp gần bốn lần trong giai đoạn 2010 - 2030. Với mục tiêu giảm 8% so với BAU, với nỗ lực trong nước thì lượng phát thải vẫn sẽ tăng gấp ba lần so với mức hàng năm hiện tại, tức là tăng từ 226 lên 725 triệu tấn CO2 tương đương.
Nếu đạt được mục tiêu giảm 25% có điều kiện so với BAU, mức gia tăng tổng lượng phát thải hàng năm từ năm 2010 đến năm 2030 vẫn còn gấp hơn 2,5 lần. Tuy nhiên, trong trường hợp này, phát thải bình quân đầu người sẽ thấp hơn vào năm 2030 so với lượng phát thải bình quân đầu người so với các nước, ví dụ: châu Âu, Nhật Bản, Brazil hoặc Indonesia (theo NDC của họ). Và nếu kịch bản có điều kiện được thực hiện, tốc độ tăng phát thải có thể bắt đầu chậm lại và mức phát thải đỉnh của Việt Nam rơi vào năm 2035 hoặc 2040 là hoàn toàn khả thi.
Như vậy, nhìn vào kịch bản phát thải khí nhà kính kể trên của Việt Nam, có thể thấy nhiệm vụ giảm phát thải là rất cấp thiết và không thể đảo ngược. Để giải quyết vấn đề này, việc sớm hình thành một thị trường mua bán chứng chỉ phát thải khí nhà kính sẽ giúp Việt Nam sớm đạt được mục tiêu kể trên.
2. Các vấn đề pháp lý khi hình thành thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính tại Việt Nam
Như đã đề cập, để hiện thực hóa thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính và hướng tới đáp ứng mục tiêu đã cam kết, Việt Nam phải giải quyết được những vấn đề pháp lý cơ bản như sau:
Thứ nhất, lựa chọn và thống nhất cơ quan đầu mối có thẩm quyền quốc gia về CDM - cơ sở để hình thành thị trường CERs cho Việt Nam (hiện nay chức năng này thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường).
 Năm 1997, Nghị định thư Kyoto ký kết với 03 mục tiêu cơ bản hướng tới gồm: (i) Mua bán phát thải (mua bán các chứng chỉ phát thải giữa các nước phát triển); (ii) Đồng thực hiện (mua bán các chứng chỉ giảm phát thải thông qua các dự án giảm phát thải thiết lập tại các nước phát triển) và (iii) Cơ chế phát triển sạch - CDM. Trong đó, CDM là cơ chế duy nhất có liên quan tới các nước đang phát triển. Tuy nhiên, để xác định dự án đáp ứng tiêu chí CDM thì thủ tục đầu tư đối với dự án đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan quản lý hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương với thủ tục không đơn giản. Cụ thể, để được xác định tiêu chí này, dự án phải qua các bước thủ tục đầu tư như một dự án thông thường gồm: Đăng ký quyền sử dụng đất; đăng ký đầu tư; đăng ký thuế; đăng ký thành lập doanh nghiệp dự án; đăng ký phê duyệt đánh giá tác động môi trường… Mỗi thủ tục này là có một đầu mối riêng khiến một dự án đáp ứng tiêu chí CDM để đủ điều kiện phát hành chứng chỉ phát thải khí nhà kính, đủ điều kiện để mua bán/trao đổi luôn là một chặng đường dài. Sau quy trình dự án thì quy trình xét cấp, thẩm định CERs của dự án CDM sẽ tiếp tục là một rào cản đối với chủ đầu tư nếu muốn tham gia thị trường mua bán CERs trong và ngoài nước.
Thứ hai, quy định và cơ chế định giá hàng hóa trên thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính.
Việc định giá CERs trong giao dịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ví dụ: thời điểm năm 2003 giá 1 CER chỉ khoảng 3 - 4 USD nhưng hiện nay giá đã vọt lên cao, có nơi ở châu Âu 1 CER có giá 13 - 14 euro. Giá bán tham khảo hiện nay cho mỗi đơn vị CER dao động khoảng 8 - 16 Đô la Mỹ/đơn vị.
Có 02 mục tiêu đặt ra cho hoạt động định giá CERs gồm: Xác định giá trị thị trường và cơ sở tính phí/lệ phí và thuế trên giao dịch. Mặc dù theo nguyên tắc tự do thỏa thuận của giao dịch mua, bán hàng hóa, thì theo thông lệ số lượng và giá bán CER được xác định căn cứ vào hợp đồng mua bán CERs được ký kết. Tuy nhiên, giá bán CER hiện nay vẫn do Bộ Tài nguyên và Môi trường tham vấn và hỗ trợ định giá (Điều 8 Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg). Trường hợp chủ sở hữu CERs không bán mà chuyển CERs về nước thì số lượng CER để tính lệ phí là số lượng CER thực tế được chủ sở hữu CERs chuyển về nước, giá CER để xác định số tiền lệ phí phải nộp được căn cứ vào giá thị trường tại thời điểm chuyển CERs về nước. Ngoài ra, hiện cũng đã có những công thức tính số tiền lệ phí bán CERs phải nộp vào ngân sách nhà nước được xác định như sau:
Số tiền lệ phí bán CERs phải nộp (đồng) = Mức thu lệ phí bán CERs (%) x Số lượng CER bán hoặc chuyển về nước x Giá bán CER (đồng/CER)[10].
Sáng kiến “Sẵn sàng thị trường carbon” (Partnership for Market readiness - PMR) do Ngân hàng Thế giới tổ chức và hiện có khoảng 30 quốc gia tham gia là một diễn đàn tập hợp các ý tưởng, đề xuất kỹ thuật và nguồn lực tài chính hỗ trợ các quốc gia, khu vực nâng cao năng lực triển khai các hành động giảm phát thải khí nhà kính, trong đó một nội dung đặc biệt quan trọng đó là “định giá carbon - carbon pricing instruments” làm cơ sở để đánh thuế và mua bán trên thị trường. Bên cạnh đó, những vấn đề cơ bản trong triển khai thị trường giao dịch quyền phát thải khí nhà kính đang được PMR đặt ra và hỗ trợ các quốc gia triển khai bao gồm: Hệ thống mua bán carbon (ETS - Emission Trading Scheme), thuế carbon (Carbon taxes) và tín dụng carbon (Crediting) và cơ chế bù trừ (offset)… Những vấn đề các quốc gia đang triển khai như: Argentina với hệ thống CERs từ phát triển năng lượng tái tạo và chính sách thuế carbon; Costa Rica với cơ chế bù trừ và mua bán tự nguyện; Ấn Độ vận hành công cụ thị trường (Market based Instrument - MBIs) và định giá carbon trong quản lý chất thải; Trung Quốc với ETS của riêng mình triển khai vào năm 2017 ở một số thành phố lớn…[11]
Thứ ba, cơ chế quản lý tài chính đối với các giao dịch CERs bao gồm hoạt động tính lệ phí; tính thuế; cơ chế ưu đãi tài chính…
Hiện nay, căn cứ hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 58/TTLT/BTC-BTN&MT ngày 04/7/2008 của Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg thì: Lệ phí bán CERs là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước, được để lại toàn bộ cho Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam. Lệ phí này sử dụng chi cho các hoạt động như: Chi phí thu lệ phí; chi hỗ trợ cho các hoạt động phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thức; chi xem xét, phê duyệt tài liệu dự án CDM, quản lý và giám sát thực hiện dự án CDM. Số tiền lệ phí bán CERs còn lại sau khi chi cho các hoạt động được bổ sung vào vốn hoạt động của Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam. Tuy nhiên, việc giám sát sử dụng nguồn ngân sách tài chính thu được việc thẩm định dự án CDM và lệ phí giao dịch mua bán CERs còn đang bỏ ngỏ dẫn tới rủi ro thất thoát rất lớn. Trong các khía cạnh của định giá carbon góp phần hình thành thị trường mua bán quyền phát thải, Việt Nam mới dừng ở giai đoạn nghiên cứu chính sách; thiết lập cơ sở dữ liệu về quyền phát thải khí nhà kính và lộ trình; tổ chức xây dựng và thực hiện NDCs theo cam kết.
Bên cạnh hoạt động giám sát thì xây dựng một thị trường đúng nghĩa để các chủ thể giao dịch CERs một cách minh bạch và an toàn cũng là một mục tiêu quan trọng. Vấn đề này đòi hỏi hoàn thiện pháp lý về các công cụ ổn định thị trường, kiểm soát giá carbon cũng như giảm chi phí cho việc mua bán quyền phát thải bao gồm quy định, tiêu chí và điều kiện: (i) Dự trữ quyền phát thải khí; (ii) Vay quyền phát thải khí; (iii) Giá sàn; (iv) Giá trần; (v) Bù trừ.
Ngoài ra, bên cạnh thị trường sơ cấp, nơi các đối tượng phát thải mua quyền phát thải trực tiếp từ Chính phủ (thông qua đấu giá), cần xây dựng thêm các quy định về thị trường thứ cấp là nơi mà các đối tượng này có thể mua và bán quyền phát thải cho nhau. Chính phủ có nhiều cách để điều hành thị trường sơ cấp như đấu giá, thuê bên ngoài để bán đấu giá hoặc thuê các tổ chức tài chính bán quyền phát thải. Chính phủ có thể hạn chế những người tham gia đấu giá hoặc có thể quyết định sẽ bán bao nhiêu quyền phát thải khí tại một cuộc đấu giá. Ở thị trường thứ cấp, các sàn giao dịch có thể cung cấp các sản phẩm liên quan đến mua bán quyền phát thải khí như bù trừ hoặc các chứng khoán phái sinh… giống như các mặt hàng khác.
Các chứng khoán phái sinh có thể giao dịch trên thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính như: (i) Hợp đồng kỳ hạn; (ii) Hợp đồng tương lai; (iii) Các hợp đồng quyền chọn. Những đối tượng tham gia thị trường có lý do chính đáng để sử dụng các công cụ thị trường khác nhau. Những nội dung này hiện mới được áp dụng với các quy định pháp lý về thị trường vốn và thị trường hàng hóa.
3. Một số khuyến nghị
Theo quan điểm của tác giả, việc xây dựng và phát triển thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính tại Việt Nam là một quá trình lâu dài và cần được xem xét một cách kỹ lưỡng vì đây sẽ là cơ chế tác động trực tiếp đến môi trường nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trước mắt, để tạo dựng những tiền đề cho việc hình thành thị trường, cần triển khai một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm thời gian phê duyệt dự án CDM, phê duyệt cấp CERs và giảm chi phí hành chính xuống bằng hoặc thấp hơn hiện tại để thu hút hơn các nhà đầu tư vào các dự án CDM, từ đó tạo nguồn hàng hóa ổn định cho thị trường mua bán CERs.
Thứ hai, cần sớm sửa đổi, bổ sung Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg và các văn bản liên quan nhằm tăng cường ưu đãi đối các dự án về CDM và khuyến khích hoạt động giao dịch mua, bán/chuyển nhượng CERs ở trong và ngoài nước.
Thứ ba, từng bước thí điểm những cơ chế mới trong mua, bán quyền phát thải khí nhà kính như công khai thông tin phát thải, đấu giá phát thải trong nước và quốc tế. Nghiên cứu từng bước thí điểm tín dụng phát thải.
Thứ tư, thiết lập một cơ quan đầu mối chuyên biệt để quản lý nguồn CERs đủ điều kiện giao dịch, từ đó tổ chức phân loại, định giá, chào bán công khai để bảo đảm thu hút được nhà đầu tư trong nước và quốc tế có nhu cầu. Tuy nhiên, bảo đảm hệ thống quản lý và cơ chế kiểm soát, áp dụng chính sách dựa trên thị trường, Nhà nước chỉ quản lý, điều tiết, không can thiệp quá sâu.
Thứ năm, nghiên cứu và bước đầu áp dụng những giải pháp giao dịch mua bán hiệu quả theo hình thức trực tuyến - khớp lệnh; áp dụng công nghệ phần mềm và hệ thống quản lý tiên tiến cho sàn giao dịch carbon tương tự sàn chứng khoán hoặc sàn hàng hóa cho các giao dịch tuân thủ quy định.
Thứ sáu, tạo dựng thị trường sơ cấp với những quy định pháp lý cho các giao dịch tự nguyện ví dụ như vay carbon; bù trừ carbon…[12]
Giảm phát thải khí nhà kính là một nội dung quan trọng trong mục tiêu tổng quát của Việt Nam đến năm 2020 nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu[13]. Điều này cho thấy ý nghĩa sống còn của giảm phát thải khí nhà kính đối với không chỉ riêng Việt Nam mà còn tác động ở phạm vi toàn cầu. Hiện nay, những hoạt động mới dừng lại ở việc điều tra, kiểm kê, xây dựng kế hoạch giảm phát thải theo từng ngành, lĩnh vực, địa phương mà chưa thực sự tập trung vào một giải pháp cụ thể và hiệu quả để đạt được những mục tiêu đã cam kết quốc tế. Giải pháp về một thị trường mua, bán quyền phát thải khí nhà kính đã và đang được thế giới nghiên cứu và áp dụng có hiệu quả sẽ là bài học kinh nghiệm quý báu để Nhà nước sớm áp dụng thực tế tại Việt Nam trong thời gian tới. Với tiềm năng sẵn có, nhiệm vụ trước mắt cần chuẩn bị những cơ sở pháp lý cơ bản đầu tiên và từng bước thí điểm các hợp phần của thị trường để chuẩn bị cho sự ra đời thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà kính của Việt Nam.
Nguyễn Tiến Đạt
Khoa Luật Kinh tế, Học viện Chính sách và Phát triển
 
[1] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội quốc gia (NCIF) – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, http://ncif.gov.vn/Pages/default.aspx, truy cập ngày 02/7/2021.
[2] David Eckstein, Vera Kunzel, Laura Schafer, Maik Winges (2020), Global climate risk index 2020 – Who suffers most from extreme weather events? (Briefing paper), GermanWatch, tr. 9
[3] Dự án CDM là dự án đầu tư sản xuất theo công nghệ mới, tiên tiến thân thiện với môi trường, có kết quả giảm phát thải khí nhà kính được Ban chấp hành quốc tế về CDM (là tổ chức được các nước tham gia Công ước Khí hậu thành lập và ủy quyền giám sát các dự án CDM) chấp thuận đăng ký và cấp chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính.
[4] Cơ chế phát triển sạch (CDM - Clean Development Mechanism) là cơ chế hợp tác được thiết lập trong khuôn khổ nghị định thư Kyoto (Nhật Bản) tháng 12/1997, theo đó các nước phát triển (các nước công nghiệp) hỗ trợ, khuyến khích các nước đang phát triển thực hiện các dự án thân thiện với môi trường, nhằm phát triển bền vững.
https://cdm.unfccc.int/, truy cập ngày 05/5/2021.
[5] Dales, J. H.(1968), Pollution, Property and Prices, Toronto: University of Toronto Press, tr. 92-100.
[6] Xuân Long (2019), Việt Nam - Năng lượng đứng đầu phát thải khí nhà kính, http://tuoitre.vn, truy cập ngày 20/07/2021. 
[7] Báo cáo kỹ thuật về rà soát và cập nhật đóng góp do quốc gia tự quyết định (Nationally determined contributions - NDCs) https://unfccc.int/process-and-meetings/the-paris-agreement/nationally-determined-contributions-ndcs/nationally-determined-contributions-ndcs, truy cập ngày 25/7/2021.
[8] UNDP (2018), Báo cáo thảo luận về “Cơ hội và động cơ giảm nhẹ phát thải khí nhà kính ở Việt Nam: Đạt được các mục tiêu của Thỏa thuận Paris và Đẩy nhanh tiến độ hướng tới các mục tiêu bền vững - SDG”, tr.10
[9] Căn cứ số liệu của SR Việt Nam (năm 2015a) và MONRE (2015); số liệu của CCWG (2018a; 2018b).
[10]  Bộ Tài nguyên và Môi trường (2019), Hướng dẫn của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam - Bộ Tài nguyên và Môi trường, https://vepf.vn/vi/trang-chu.html, truy cập ngày 09/9/2021.
[11] Bộ Công Thương (2018), Sự hình thành thị trường carbon toàn cầu và những nội dung chính của Dự án sẵn sàng tham gia thị trường carbon của Việt Nam, Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương: moit.gov.vn, truy cập ngày 07/10/2021.
[12] Bùi Thu Hiên, Vũ Trung Kiên (2018), Các yếu tố cần thiết để xây dựng thị trường mua bán quyền phát thải khí trong tương lai, https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/cac-yeu-to-can-thiet-de-xay-dung-thi-truong-mua-ban-quyen-phat-thai-khi-trong-tuong-lai-136233.html, truy cập ngày 21/10/2021.
[13] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (2013), Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.