Trong Chương V Luật tục Êđê có 127 điều quy định rõ từ việc trai gái tìm hiểu nhau, đến trao vòng đính ước, thách cưới, rồi lễ cưới, cả việc ngoại tình, ly hôn... như thế nào là vi phạm và cách thức xử phạt đối với người có hành vi vi phạm quy định của Luật tục này. Tương quan giữa Luật tục Êđê về vấn đề hôn nhân, gia đình và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thể hiện trên một số khía cạnh sau:
1. Quy định về kết hôn
Điều kiện kết hôn là chuẩn mực pháp lý để xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình theo những khuôn mẫu nhất định phù hợp với lợi ích chung của Nhà nước và xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định điều kiện về độ tuổi kết hôn; sự tự nguyện khi xác lập quan hệ hôn nhân; một bên hoặc cả hai bên nam, nữ không bị mất năng lực hành vi dân sự và các bên không thuộc trường hợp cấm kết hôn được liệt kê tại Điều 5 Luật này.
Luật tục Êđê quy định về sự tự nguyện trong hôn nhân với nội dung việc đính hôn và từ hôn không có sự cưỡng ép: “Trâu bò không ai ép thừng, trai gái không ai ép duyên. Nếu hai người ưng nhau muốn lấy nhau thì vòng cứ đặt lên chiếu, tự họ, họ sẽ cầm lấy, không một ai cầm trao tay cho họ”[1]. Như vậy, hôn nhân được bắt đầu bằng việc yêu thương nhau và muốn lấy nhau như một lẽ tự nhiên. Khi tình cảm của đôi nam nữ đã chín muồi, họ báo cáo với cha mẹ, gia đình hai bên về ý định kết hôn hoặc do cha mẹ, gia đình người con gái sắp đặt và nhờ ông cậu trong gia đình hoặc nhờ người mai mối nói chuyện với bên gia đình người con trai. Những quy định này phù hợp với nguyên tắc “hôn nhân tự nguyện” và được cụ thể hóa tại điểm b khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”.
Tuy nhiên, Luật tục Êđê quy định không được kết hôn trong cùng một dòng họ, vì như thế là loạn luân, sẽ khiến cho các vị thần linh nổi giận, phạt lây đến cả cộng đồng buôn làng. Trong một buôn cũng như trong mỗi vùng đều có nhiều dòng họ khác nhau như Ayun, Êban, Hđruê, Mlô, Hmok, Kbur, Niê Kđăm... nhưng trong quan niệm thì tất cả các dòng họ nói trên đều xuất phát từ một trong hai dòng họ khác nhau, nếu thuộc về cùng một gốc Niê (hay Mlô) thì không thể kết hôn cùng nhau được[2]. Trai gái trong cùng một họ gốc có quan hệ luyến ái là mắc trọng tội, đó là tội loạn luân với quan niệm trời không dung đất không tha, thần linh sẽ nổi giận: “Cây củ ấu dưới suối, cây khoai môn trong đầm bị héo khô, cây xoài, cây muỗm không đơm hoa được tốt” nên “chúng phải làm một lễ tẩy uế cho đất, cho rừng bằng lợn và rượu; của cải, tiền bạc, váy áo chúng có lúc phạm tội[3]”. Nội dung này gần tương tự như quy định về cấm kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 với nội dung cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời[4]. Do xuất phát từ quan niệm về dòng họ và cách tính dòng họ mà Luật tục Êđê cấm kết hôn với cả những người cùng dòng họ nhưng không có liên quan gì về mặt huyết thống. Điều này dẫn đến việc hạn chế quyền bình đẳng và quyền tự do hôn nhân của nam nữ khi lựa chọn bạn đời. Bên cạnh đó, vì theo chế độ mẫu hệ nên Luật tục Êđê cho phép kết hôn kiểu hôn nhân con cô - con cậu, tức là các con của chị em gái có thể kết hôn với các con của anh em trai vì chúng thuộc các dòng họ khác nhau, trong khi con của các chị em gái vì cùng dòng họ nên không thể lấy nhau. Điều này vi phạm vào trường hợp cấm kết hôn được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Mặt khác, tuổi kết hôn theo Luật tục Êđê khá sớm, khoảng 13 - 17 tuổi, khi thấy vóc dáng cơ thể đã phát triển đầy đặn, đã làm được việc và đảm nhận được vai trò làm cha, làm mẹ của đôi nam nữ là họ được kết hôn. Trong khi đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về độ tuổi kết hôn phải bảo đảm: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”[5] mới được coi là đủ tuổi kết hôn.
Luật tục Êđê còn quy định các trường hợp có thể đi lấy chồng khác đó là, người đàn bà có chồng đi vắng lâu năm, không còn chờ được nữa thì có thể lấy chồng khác: “Chị ấy năm không còn thể chờ, tháng không còn thể đợi được hơn nữa. Chị ấy đã già đi mà không được lợi ích gì… Đến đây, chị ta không còn sức lực chịu đựng cảnh sống âm thầm ấy nữa. Chị ấy sống cô đơn chờ đợi như vậy đã đủ rồi. Vậy thì chị ấy sẽ nhờ những người anh em, những ông bác, ông cậu (phía chị ta) tìm cho người chồng khác”[6], hoặc nếu người chồng bị cầm tù hoặc bị bắt làm nô lệ thì người vợ không bắt buộc phải chờ mà có thể lấy chồng khác, bởi “Chị ta đã mòn mỏi đợi chờ, người đã già đi, công việc nương rẫy không có người làm… Con thì khóc, rẫy thì cỏ mọc, gùi lớn gùi nhỏ, gùi đẹp, gùi thường xơ xác, trống rỗng; cơm canh thiếu thốn mọi bề” thì đã đến lúc “phải để chị ta kiếm một người chồng khác, một đời chồng thứ hai”[7]. Quy định này hoàn toàn trái ngược với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, bởi theo quy định hiện hành, việc một bên vợ, chồng biệt tích lâu ngày, hoặc bị Tòa án tuyên bố mất tích không phải là căn cứ để chấm dứt hôn nhân mà chỉ có thể là căn cứ để Tòa án giải quyết ly hôn nếu một bên vợ, chồng yêu cầu.
Tục Juê nuê là một kiểu tập quán hôn nhân truyền thống và được cộng đồng dân tộc Êđê thực hiện từ lâu đời, duy trì bền vững qua thời gian, được quy định rõ: “Rầm sàn gẫy thì phải thay, giát sàn nát thì phải thế, chết người này phải nối bằng người khác”[8]. Cộng đồng dân tộc Êđê trước đây sống biệt lập ở những vùng núi cao, cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên và luôn phải đối phó với thiên tai, dịch bệnh nên tục này cho phép duy trì nòi giống, sức lao động để bảo vệ buôn làng, bảo đảm cuộc sống cộng đồng. Đồng bào Êđê sợ rằng: “Gia đình sẽ tan tác ngoài nương rẫy, dòng họ sẽ kiệt quệ, giống nòi sẽ khô kiệt như những dòng suối cạn nước, kẻo tuyệt nòi không còn con cháu nữa”. Người Êđê theo chế độ Mẫu hệ, người phụ nữ có quyền lực và quyết định nhiều vấn đề quan trọng. Vì thế, trong trường hợp chồng chết, người phụ nữ có quyền đòi hỏi nhà chồng phải thế một người em trai chồng để làm chồng mình.
Ngược lại, nếu người vợ chết, thì chồng người phụ nữ ấy buộc phải lấy em gái vợ (em ruột hoặc em họ của vợ) để nối giống nòi. Những người này được gọi là “nuê”. Trong trường hợp người “nuê” quá chênh lệch về tuổi tác, chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa cũng đã được Luật tục Êđê điều chỉnh và quy định rõ rằng: “Nếu người góa đã đứng tuổi mà người thay thế còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu làm vợ (chồng), thì người góa phải có trách nhiệm nuôi nấng, dạy bảo “nuê” như một đứa trẻ bình thường khác”. Luật tục Êđê cũng quy định người góa phải: “Biết che chở, chờ đợi nuê, đến một lúc nào đó nuê sẽ làm được nhiệm vụ nối tiếp giống nòi”. Quy định như vậy là không phù hợp với nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, ảnh hưởng đến quyền tự do, tự nguyện kết hôn của hai bên nam và nữ.
2. Quy định về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng
Khi xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp, giữa vợ và chồng phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và quyền, nghĩa vụ về tài sản đối với nhau, nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc và bền vững. Luật tục Êđê rất coi trọng sự bền vững của hôn nhân: “Đã lấy vợ thì phải ở với vợ cho đến chết; đã cầm cần mời rượu thì phải vào cuộc cho đến khi rượu nhạt; đã đánh cồng thì phải đánh cho đến khi người ta giữ tay lại; chớ có ban đêm thì nói thế này, ban ngày thì nói thế khác”[9]. Do đó, chớ nên để ý, quan tâm đến vợ (hoặc chồng) của người khác, nhà khác. Quy định này phù hợp với nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định, đồng thời, phù hợp với quy định về tình nghĩa vợ chồng: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy”[10] với nhau. Đã có những quy định này nên việc ngoại tình của những kẻ “thèm bông hoa tông mông, thèm con diều có đuôi dài”[11] bị coi là rất xấu xa, là kẻ có tội rất nghiêm trọng: “Hắn là kẻ to gan lớn mật, dám vượt cả núi cao, muốn chiếm đoạt cả vợ của tù trưởng nhà giàu”[12], hoặc “Chúng là những kẻ đứa đã có vợ, đứa đã có chồng mà còn lăng nhăng với nhau, trên đắp chăn, dưới lót củi”[13], vậy nên phải đưa ra xét xử: “Nếu người ta là một nhà nghèo thì hắn phải nộp một khoản bồi thường sáu ko và phải làm một lễ kpih với một con lợn giá một ko; nếu người ta là nhà giàu, một tù trưởng thì hắn phải nộp một khoản bồi thường bằng giá một cái la có đường bán kính một cùi tay thêm một nắm tay và phải làm lễ kpih với một con trâu”[14]. Điều này cho thấy sự khắt khe của Luật tục Êđê đối với tội ngoại tình, đồng thời góp phần củng cố sự vững chắc của quan hệ vợ chồng.
Về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, người vợ đóng vai trò quyết định mọi công việc trong nhà, trong khi người đàn ông đảm nhiệm vai trò kiếm ăn hàng ngày và giao tiếp ngoài xã hội. Người đàn ông là lao động chính tạo ra của cải vật chất cho gia đình vợ, nếu lười biếng sẽ bị trả về gia đình và có trách nhiệm bồi thường lại gia đình vợ vì khi cưới gia đình vợ đã phải trả chi phí. Khi về nhà vợ làm rể, người chồng được sử dụng tài sản do mình làm ra nhưng không được đem tài sản về nhà mẹ và chị em gái của mình. Quy định như vậy chưa bảo đảm được quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
3. Quy định về quan hệ giữa cha mẹ và con, ông bà và cháu
Trong Luật tục Êđê, khi mở đầu Chương VI về mối quan hệ cha mẹ và con cái đã khẳng định: “Có dưa có bắp là có người trồng; có con cái là do cha mẹ sinh ra; có người phải được coi trọng”. Do đó, con cái có nghĩa vụ phải chăm sóc lại khi cha già mẹ yếu; nếu vi phạm điều này là người có tội, phải bị xem xét mức độ vi phạm. Luật tục Êđê cũng chê trách loại người “như ngọn cỏ muốn vươn cao hơn cây lau; như cọng tranh muốn vươn cao hơn cây sậy; như thú rừng muốn vọt cao hơn lùm cây êjung”, chỉ như vậy thôi “chúng đã là người có tội”. Còn nếu chúng là kẻ không biết nghe điều phải trái, lười lao động: “Củi không đi lấy; rẫy không đi làm; cối chày không đụng đến” để giúp đỡ cha mẹ, thì đến “chị em hắn cũng chẳng ai còn muốn cưu mang”. Đặc biệt là những đứa con mắc tội bạo hành với cha mẹ: “Khi có bắp chân to nó dẫm lên cha; nó đùi to nó đạp lên mẹ” thì dứt khoát “là kẻ có tội, phải đưa ra xét xử”. Những đứa con bỏ bê cha mẹ lúc ốm đau cũng sẽ bị Luật tục Êđê truất quyền thừa kế. Nếu đã từng được chia thì phải “trả lại phần của cải của mẹ cha để lại”. Thậm chí, “muối thừa, lúa thừa, cơm thừa, bầu bí và gia súc nó không được hưởng”. Con cái phải luôn luôn chăm sóc, bảo đảm một đời sống ổn định; nhất là không được “hỗn láo với ông bà”. Trách nhiệm của các con cháu là “đừng bỏ ông bà; phải nuôi cho đến già mới chết”. Luật tục Êđê cũng quy định rõ nghĩa vụ của cha mẹ không chỉ là nuôi nấng mà còn phải dạy dỗ con cái nên người. Lỗi lầm của con cháu, tùy theo hành vi và mức độ vi phạm mà cha mẹ cũng phải là người cùng chịu trách nhiệm. Những quy định này hoàn toàn phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại; trường hợp ông bà nội, ông bà ngoại không có con để nuôi dưỡng mình thì cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng”[15] và “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”[16].
Bên cạnh đó, cũng có những quy định của Luật tục Êđê liên quan đến quan hệ giữa cha mẹ và con không phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể:
Luật tục Êđê quy định cha mẹ có trách nhiệm bồi thường mọi thiệt hại do con gây ra khi vi phạm điều cấm của Luật tục: “Nếu những đứa con làm điều này điều nọ, nếu chúng đi tầm bậy tầm bạ như kẻ điên dại, nếu chúng ăn uống bê tha bên cạnh ché rượu, nếu chúng đi rình mò thò tay lấy cắp, lấy trộm của người ta, nếu người làm cha làm mẹ làm ngơ, chấp nhận tất cả hành vi xấu xa của các con họ có thể làm, thì họ phải chịu trách nhiệm”[17]. Nếu các con ăn cắp hay làm hư hại tài sản của người khác thì cha mẹ phải bồi thường gấp rưỡi hay gấp đôi; nếu các con xúc phạm đến cha mẹ người khác thì phải chịu phạt hai con gà, một ché rượu; nếu con đánh nhau mà làm người khác bị thương thì cha mẹ phải có trách nhiệm chữa cho người đó đến khi lành hẳn và phải tạ lỗi bằng heo, gà, rượu. Tuy nhiên, quy định này chỉ phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và pháp luật dân sự khi con chưa thành niên: “Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật Dân sự”[18]. Còn khi con đã thành niên và có đủ năng lực hành vi dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoàn toàn do người con tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình.
Ngoài ra, Luật tục Êđê còn có những quy định cụ thể về việc vợ chồng không có con cái, nhận con nuôi thì ngoài việc cả dòng họ phải coi đó như con đẻ thì khi qua đời, của cải cũng phải chia cho như những người con cháu khác: “Bà ta vốn là một người vô sinh, chưa từng sinh đẻ; vì vậy, bà ấy phải tìm nuôi lấy một đứa con của chị hay của người em gái, không có đứa này thì phải tìm một đứa khác trong cùng một họ với mình”, xác lập quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ nuôi và con nuôi “như chính mình đẻ ra để tránh mất giống nòi”, do đó, “của cải bà ấy có bao nhiêu thì đều để lại cho người con mà bà ấy đã nuôi, tất cả mọi thứ đều thuộc về người con ấy”[19]. Quy định này tương đồng với quy định tại khoản 3 Điều 68 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Luật này, Luật Nuôi con nuôi, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan”, trong đó, Luật Nuôi con nuôi năm 2010 xác định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con” (khoản 1 Điều 24).
Quy định về hôn nhân và gia đình là một trong những nội dung quan trọng, chủ yếu của Luật tục Êđê. Trong mối tương quan với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, bên cạnh những điểm chưa phù hợp, lạc hậu thì Luật tục cũng chứa đựng nhiều yếu tố tích cực. Nhận diện được những mặt tích cực và hạn chế của Luật tục là cơ sở góp phần thúc đẩy nhận thức cũng như nâng cao ý thức chấp hành, thực hiện pháp luật về lĩnh vực hôn nhân và gia đình trong cộng đồng đồng bào dân tộc Êđê trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.
ThS. Nông Thị Thoa
Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại tỉnh Đắk Lắk
[1]. Điều 95 Luật tục Êđê.
[2]. Luật tục Êđê (Tập quán pháp); Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn & Nguyễn Hữu Thấu, Nxb. Văn hóa dân tộc, năm 2012, tr. 27.
[3]. Điều 157 Luật tục Êđê.
[4]. Điểm d khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[5]. Điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[6]. Điều 135 Luật tục Êđê.
[7]. Điều 134 Luật tục Êđê.
[8]. Điều 292 Luật tục Êđê.
[9]. Điều 110 Luật tục Êđê.
[10]. Khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[11]. Điều 118 Luật tục Êđê.
[12]. Điều 114 Luật tục Êđê.
[13]. Điều 115 Luật tục Êđê.
[14]. Điều 118 Luật tục Êđê.
[15]. Khoản 2 Điều 104 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[16]. Khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[17]. Điều 143 Luật tục Êđê.
[18]. Điều 74 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[19]. Điều 131 Luật tục Êđê.