1. Các hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng theo pháp luật hiện hành
Có thể thấy, hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng là kết cục tất yếu sẽ dẫn đến mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng mà cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những loại trách nhiệm tiền hợp đồng khác nhau.
1.1. Hậu quả pháp lý là hợp đồng vô hiệu
Trong giai đoạn tiền hợp đồng, có thể xuất hiện hai trường hợp dẫn đến hợp đồng vô hiệu, đó là vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015) và vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015)[1]. Quá trình xác lập và thực hiện hợp đồng đều có thể xuất hiện sự nhầm lẫn và lừa dối. Những nhầm lẫn và lừa dối của giai đoạn xác lập hợp đồng (tiền hợp đồng) là nguyên nhân dẫn đến hậu quả pháp lý tiền hợp đồng.
Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp: Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được. Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu. Trong nhiều trường hợp, sự nhầm lẫn có thể xảy đến do lỗi của bên đối tác. Khi một bên có lỗi làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó. Nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015). Tuy nhiên, lỗi ở đây chỉ có thể là lỗi vô ý. Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên đối tác thì khi đó sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối (Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu (Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015). Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó. Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình. Những giao dịch được xác lập do lừa dối, đe dọa, cưỡng ép chỉ bị vô hiệu khi có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép và Tòa án chấp nhận yêu cầu đó. Như vậy, những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực nếu không có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép.
Cả hai trường hợp dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng đều xuất phát từ giai đoạn tiền hợp đồng. Nếu một trong các bên hoặc tất cả các bên đưa ra thông tin gây nhầm lẫn hay thông tin có tính lừa dối (từ lỗi cố ý hoặc vô ý) thì đều dẫn tới hậu quả “vô hiệu hợp đồng”. Sự nhầm lẫn và lừa dối của giai đoạn tiền hợp đồng có nhiều hình thức thể hiện, điều cốt yếu là bên bị thiệt hại chứng minh được lỗi tạo ra sự nhầm lẫn và lừa dối.
1.2. Hậu quả pháp lý là hủy hợp đồng, chấm dứt hợp đồng
Có những hành vi vi phạm xảy ra trong giai đoạn tiền hợp đồng, tuy nhiên, khi các bên thực hiện hợp đồng mới phát hiện ra vi phạm thì hậu qủa pháp lý đặt ra có thể là chấm dứt hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng. Cũng có quan điểm cho rằng, chấm dứt hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng do hành vi vi phạm xảy ra trong giai đoạn tiền hợp đồng nhưng nghĩa vụ này đã được chuyển hóa thành nghĩa vụ trong hợp đồng thì hậu quả pháp lý được xác định là hậu quả theo hợp đồng. Tuy nhiên, dựa trên mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả thì thời điểm xảy ra vi phạm nằm ở giai đoạn tiền hợp đồng nên hậu quả pháp lý về mặt logic được xác định là hậu quả do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng. Như vậy, cũng là chấm dứt thực hiện, hủy bỏ hợp đồng nhưng nguyên nhân xảy ra có thể tồn tại trong hai giai đoạn khác nhau. Nếu nguyên nhân để hợp đồng bị hủy bỏ, chấm dứt xảy ra ở giai đoạn tiền hợp đồng thì hậu quả đó là hậu quả pháp lý của tiền hợp đồng. Nếu nguyên nhân xảy ra trong giai đoạn thực hiện hợp đồng như không thực hiện, thực hiện không đúng… thì hậu quả đó được xác định là hậu quả pháp lý trong hợp đồng.
Hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng có những điểm giống nhau như: Đều được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015; đều có hậu quả là kết thúc việc thực hiện hợp đồng; do một bên thực hiện; điều kiện để áp dụng việc hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng là khi một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ; phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hoặc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Tuy nhiên, giữa hủy bỏ hợp đồng và đơn phương chấm dứt hợp đồng cũng có nhiều điểm khác biệt:
- Về căn cứ pháp lý: Đối với hủy bỏ hợp đồng là Điều 423 Bộ luật Dân sự năm 2015, còn đối với đơn phương chấm dứt hợp đồng là Điều 428 Bộ luật này.
- Về hậu quả pháp lý: Hủy bỏ hợp đồng làm hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, tức là hủy bỏ hợp đồng có giá trị hồi tố (tương tự hậu quả hợp đồng vô hiệu), tuy nhiên, pháp luật có loại trừ một số nghĩa vụ vẫn phải thực hiện như nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận về bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm và giải quyết tranh chấp; các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền, bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên còn lại thanh toán phần nghĩa vụ mà mình đã thực hiện. Đối với trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng, hợp đồng được chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt; các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ nữa.
Theo Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi, bổ sung các năm 2010 và năm 2019 (Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2019), doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được hưởng tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường và không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm. Ngược lại, nếu “Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật”. Luật này không đề cập đến khái niệm hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm cụ thể. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã ghi nhận hành vi trục lợi trong kinh doanh bảo hiểm như một tội danh có thể phạt tiền, thậm chí là phạt tù (Điều 213). Đây được coi là những hành vi gian lận bảo hiểm để trục lợi bảo hiểm. Những hành vi gian lận bảo hiểm, trong một số trường hợp được hiểu là cung cấp thông tin sai sự thật trong giai đoạn tiền hợp đồng và là cơ sở của hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm. Sự hủy bỏ hợp đồng là một biện pháp vừa mang ý nghĩa răn đe người vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin sai sự thật trong giai đoạn tiền hợp đồng, vừa là cơ chế bảo đảm hiệu quả quyền lợi hợp pháp của bên còn lại.
1.3. Hậu quả pháp lý là bồi thường thiệt hại
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, bồi thường thiệt hại trong giai đoạn tiền hợp đồng do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, nghĩa vụ bảo mật thông tin, nghĩa vụ trong đề nghị giao kết hợp đồng không phải là nghĩa vụ trong hợp đồng nên bồi thường thiệt hại được hiểu là trách nhiệm ngoài hợp đồng và đây là một loại hậu quả pháp lý có thể phát sinh độc lập từ hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng. Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng khá lớn của pháp luật Civil Law (Pháp) nên quan điểm về bồi thường thiệt hại trong giai đoạn tiền hợp đồng như trên đây hoàn toàn dễ hiểu. Trong thực tế, các Tòa án khi giải quyết những vụ việc liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin, bảo mật thông tin cũng viện dẫn các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của giai đoạn tiền hợp đồng đi đến một số hệ quả nhất định. Nếu pháp luật không quy định rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong giai đoạn tiền hợp đồng thì áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 387, Điều 131, Điều 407 và các điều từ Điều 423 đến Điều 428 của Bộ luật Dân sự năm 2015, một trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định về “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong trường hợp này, trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của bên gây thiệt hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hậu quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng ở Việt Nam hiện nay
2.1. Đối với hậu quả pháp lý là hợp đồng vô hiệu
Thông tin tiền hợp đồng liên quan đến quyết định xác lập hợp đồng nên việc vi phạm nghĩa vụ thông tin tiền hợp đồng được coi là một sai phạm trong giai đoạn giao kết hợp đồng và chế tài cho việc vi phạm này có thể là vô hiệu hợp đồng. Hậu quả pháp lý từ hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng được tìm thấy trong pháp luật các nước như Anh, Pháp, Mỹ hay trong Điều 4.107 - Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng và Điều 3.8 Bộ nguyên tắc Unidroit[2]. Tại Việt Nam, trên cơ sở Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015, vô hiệu hợp đồng có thể được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng giao kết do bị lừa dối (hành vi này có thể xuất hiện trong hợp đồng nhưng cũng có thể phát sinh từ giai đoạn các bên đàm phán). Theo đó, khi một bên tham gia giao kết hợp đồng do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu. Tuy nhiên, Điều 387 Bộ luật này trực tiếp điều chỉnh hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng chỉ ghi nhận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không quy định hợp đồng có vô hiệu hay không. Chính vì vậy, để gần gũi hơn với pháp luật các nước, Bộ luật Dân sự năm 2015 cần quy định rõ hơn theo hướng không chỉ hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng mà cả hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng cũng có thể bị tuyên vô hiệu nếu hành vi vi phạm yếu tố tự nguyện trong xác lập giao dịch dân sự.
2.2. Đối với hậu quả pháp lý là chấm dứt hợp đồng
Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2019 thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt (đình chỉ thực hiện) hợp đồng bảo hiểm nếu bên mua bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được hưởng tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường và không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm; ngược lại, trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật. Ở đây, nghĩa vụ thông tin trong quan hệ bảo hiểm là nghĩa vụ thông tin tiền hợp đồng. Theo quy định của Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2019 thì hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật của người mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm thực chất là hành vi lừa dối. Mặc dù đơn phương chấm dứt hợp đồng được coi là chế tài trong hợp đồng, tuy nhiên, từ văn bản chuyên ngành là Luật Kinh doanh bảo hiểm cho thấy, hậu quả pháp lý này còn có thể phát sinh từ giai đoạn tiền hợp đồng khi xét trong mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Rõ ràng, nếu một bên biết được thông tin bị vi phạm đó trước khi giao kết hợp đồng thì có thể hợp đồng đã không được hình thành. Như vậy, với vai trò là văn bản pháp luật chung điều chỉnh các vấn đề về hợp đồng, Bộ luật Dân sự cần có quy định cụ thể hơn để thống nhất với luật chuyên ngành.
2.3. Đối với hậu quả pháp lý là bồi thường thiệt hại
Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”. Việc pháp luật quy định khi một bên vi phạm nghĩa vụ thì phải gánh chịu trách nhiệm do hành vi vi phạm của mình nhằm ngăn ngừa và hạn chế các chủ thể thực hiện những hành vi làm ảnh hưởng đến quyền lợi người khác. Trong quan hệ giao kết hợp đồng, lợi ích của các bên được bảo vệ một cách trực tiếp nhất dựa trên trách nhiệm dân sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại). Với tư cách là loại nghĩa vụ do luật định, khi xem xét trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin và bảo mật thông tin hay bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời gian chờ bên được đề nghị trả lời, thì đây là loại trách nhiệm ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, quy định hiện nay về bồi thường thiệt hại chưa thực sự rõ ràng, cụ thể:
Về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Theo khoản 3 Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong quá trình giao kết hợp đồng nếu bên có thông tin và bên nhận được thông tin bí mật của bên kia mà vi phạm nghĩa vụ gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Quy định này chỉ điều chỉnh được một trường hợp cụ thể làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vậy, đối với trường hợp vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung thực thì có làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại không, trách nhiệm đó phát sinh trên cơ sở nào?
Về thiệt hại được bồi thường: Mục đích của bồi thường thiệt hại là khôi phục lại tình trạng ban đầu cho người bị thiệt hại, tức là, đưa bên bị thiệt hại quay trở lại hoàn cảnh chưa có thiệt hại. Chính vì thế, các hệ thống pháp luật đều quy định theo hướng bên gây ra thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Pháp luật Việt Nam cũng quy định nguyên tắc bồi thường toàn bộ như tại khoản 1 Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó, thiệt hại được bồi thường là toàn bộ “thiệt hại thực tế”. Vậy, nếu hành vi vi phạm nghĩa vụ trong giai đoạn tiền hợp đồng dẫn đến một bên mất đi các lợi ích đáng ra có thể có được nếu như không có sự vi phạm thì sẽ thế nào? Trong trường hợp không thực hiện hợp đồng đã được giao kết hợp pháp, chúng ta có quy định cho phép bồi thường khoản lợi đáng ra được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện bình thường (khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại năm 2005) nhưng đối với giai đoạn tiền hợp đồng, hiện nay, lại chưa có quy định tương tự. Nên chăng, trong giai đoạn tiền hợp đồng cũng nên có quy định tương tự về thiệt hại được bồi thường như giai đoạn thực hiện hợp đồng, tất nhiên, để được bồi thường thì bên có quyền cần chứng minh được thiệt hại đó.
Ngoài ra, trong nghĩa vụ bảo mật thông tin tiền hợp đồng, nếu bên nhận được thông tin bí mật sử dụng các thông tin đó một cách bất hợp pháp hay tiết lộ cho bên thứ ba thì có thể thu được những khoản lợi. Câu hỏi đặt ra là, khoản lợi này cần được xử lý như thế nào? Xu hướng chung hiện nay là quy định nghĩa vụ hoàn trả của bên có hành vi vi phạm. Cụ thể, Điều 2:302 Bộ nguyên tắc luật hợp đồng châu Âu quy định về nghĩa vụ bảo mật với nội dung: “Nếu thông tin bí mật được một bên đưa ra trong quá trình thương lượng, bên kia phải có nghĩa vụ không tiết lộ thông tin đó hoặc không sử dụng thông tin đó cho các mục đích riêng bất kể liệu hợp đồng sau đó có được ký kết không. Việc vi phạm nghĩa vụ này có thể làm phát sinh quyền được bồi thường thiệt hại cho những thiệt hại đã xảy ra và hoàn trả những lợi ích đã có được của bên vi phạm”. Hay Điều 2.1.16 Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 về nghĩa vụ bảo mật: “Thực hiện không đúng nghĩa vụ này có thể phải bồi thường thiệt hại, nếu có, bao gồm lợi ích mà bên kia có thể thu được từ bí mật này”. Tiếp thu xu hướng này, phần quy định chung về nghĩa vụ bảo mật thông tin giai đoạn tiền hợp đồng nên được bổ sung quy định: “Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả lại những khoản lợi ích thu được từ việc vi phạm đó”.
ThS. Đỗ Thị Hoa
Trường Đại học Thương mại
[1]. Nguyễn Văn Điền, Giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/giao-dich-dan-su-vo-hieu-theo-quy-dinh-cua-blds-2015, truy cập ngày 15/5/2020.
[2]. Lê Trường Sơn, Hệ quả pháp lý do vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền hợp đồng trong pháp luật các nước và kinh nghiệm cho Việt Nam, https://iluatsu.com/dan-su/he-qua-phap-ly-do-vi-pham-nghia-vu-cung-cap-thong-tin-tien-hop-dong/, truy cập ngày 12/02/2021.