1. Tổng quan về tình hình Biển Đông và vùng biển Việt Nam
1.1. Vai trò và vị trí chiến lược của Biển Đông[1]
Biển Đông là biển nửa kín ven lục địa, thuộc Thái Bình Dương, có diện tích 3,447 triệu ki-lô-mét vuông, dài khoảng 1.900 hải lý, rộng khoảng 600 hải lý, độ sâu trung bình 1.149 mét. Biển Đông có hai vịnh lớn là Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan, có ba quần đảo: Đông Sa, Hoàng Sa, Trường Sa và hàng nghìn đảo lớn, nhỏ. Gần 90% chu vi Biển Đông được bao quanh bởi 9 quốc gia ven biển (Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei và Philippines). Phần còn lại của Biển Đông thông ra Thái Bình Dương qua eo biển Ba-si và thông ra Ấn Độ Dương qua eo biển Ma-lắc-ca.
Biển Đông là đầu mối giao thông hàng hải và hàng không huyết mạch giữa châu Âu với châu Á và giữa nhiều nước châu Á với nhau; có 25% lưu lượng tàu thuyền của thế giới qua lại thường xuyên. Do đó, Biển Đông có vị trí chiến lược đối với châu Á - Thái Bình Dương và thế giới. Hằng năm, trên Biển Đông diễn ra hàng chục cuộc tập trận quân sự song phương và đa phương. Biển Đông cũng là con đường cơ động lực lượng quân sự trên biển ngắn nhất từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương và ngược lại.
Nằm bên bờ Biển Đông, Việt Nam có vùng biển và thềm lục địa rộng khoảng một triệu ki-lô-mét vuông (lớn gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền), mở ra trên cả ba hướng: Đông, Nam và Tây - Nam, với chiều dài bờ biển trên 3.260 ki-lô-mét. Trên vùng biển của đất nước có 48 vũng, vịnh, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và có khoảng 3.000 đảo lớn, nhỏ (riêng hệ thống đảo ven bờ có 2.773 đảo). Hiện nay, về tổ chức hành chính, Việt Nam có 12 huyện đảo: Cô Tô, Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ, Cát Hải (Thành phố Hải Phòng), Cồn Cỏ (tỉnh Quảng Trị), Hoàng Sa (Thành phố Đà Nẵng), Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa), Phú Quý (tỉnh Bình Thuận), Côn Đảo (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), Kiên Hải, Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang).
Vùng biển của Việt Nam trên Biển Đông rất giàu tài nguyên và cũng là vùng biển chứa đựng nhiều giá trị về mỹ học, địa chất - địa mạo học với Di sản thiên nhiên thế giới Hạ Long và các khu dự trữ sinh quyển thế giới. Đây còn là vùng biển có nguồn lợi sinh vật, các hệ sinh thái phong phú và nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn. Với những yếu tố địa lý, lịch sử, xã hội và với sự đa dạng về tài nguyên như vậy, Biển Đông nói chung, vùng biển Việt Nam nói riêng có vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
1.2. Tham vọng độc chiếm Biển Đông
Trung Quốc coi toàn bộ vùng nước và các thực thể nằm trong đường đứt khúc 9 đoạn mà nước này vẽ ra ở Biển Đông thuộc “vùng nước lịch sử” của Trung Quốc. Trong bài phân tích hôm 01/8/2019, giáo sư Carl Thayer viết: “Những hành động của Trung Quốc trong 03 năm qua cho thấy hai mục tiêu chính của Bắc Kinh. Mục tiêu thứ nhất là thiết lập sự bá quyền của Trung Quốc đối với việc khai thác nguồn tài nguyên biển (bao gồm dầu và khí) ở khu vực nằm trong vùng đứt khúc 9 đoạn. Trung Quốc vì vậy làm gián đoạn các hoạt động của các nước ven biển và gây sức ép lên các quốc gia này để bắt họ phải tham gia khai thác phát triển chung cùng Trung Quốc. Mục tiêu thứ hai của Trung Quốc là loại bỏ các cường quốc bên ngoài khu vực tham gia vào việc khai thác nguồn tài nguyên ở Biển Đông. Đây là bằng chứng từ việc Trung Quốc đệ trình bản thảo để thảo luận Bộ Quy tắc về ứng xử giữa các bên trên Biển Đông được ASEAN và Trung Quốc phê duyệt vào tháng 8 năm ngoái. Trung Quốc đề nghị rằng việc hợp tác kinh tế biển chỉ được thực hiện giữa Trung Quốc và các quốc gia ven biển, và không được thực hiện bởi các công ty bên ngoài khu vực”
[2].
Cựu Giám đốc Ủy ban Tình báo Hỗn hợp của Ấn Độ, từng là phó cố vấn an ninh quốc gia, ông SD Pradhan, đã đưa ra các khía cạnh để suy ngẫm về trò chơi của Trung Quốc trên Biển Đông
[3]:
Thứ nhất, từ 1/4 cuối cùng của thế kỷ 20, Trung Quốc đã cố mở rộng đường biên giới trên biển của mình. Từ những năm 1970, họ đã từng bước cưỡng chiếm các thực thể trên Biển Đông, trước tiên là bằng việc gây chiến chống Việt Nam, sau đó là tận dụng các cơ hội để mua lại các thực thể trên biển. Có một danh sách dài các đảo, bãi cạn và thực thể khác đã nằm dưới sự quản lý của họ thông qua “chiến lược lát cắt Salami”. Thực thể gần đây nhất mà Trung Quốc chiếm đóng là Bãi Scarborough mà Philippines tuyên bố chủ quyền.
Thứ hai, Trung Quốc đã dùng đến phương sách thay đổi các thực thể địa lý để tuyên bố yêu sách của mình tại Biển Đông. Họ đã “tạo ra các đảo nhân tạo” tại Biển Đông để khẳng định yêu sách trong vùng hình chữ U (việc sử dụng cụm từ yêu sách lãnh thổ là nhằm gây hiểu lầm, bởi không thực thể nào trong số này được gọi là đảo theo Công ước luật Biển của Liên hợp quốc năm 1982). Bên cạnh đó, họ còn quân sự hóa các đảo nhân tạo này để dùng làm các căn cứ quân sự của mình. Trung Quốc trước đây từng ngang nhiên coi vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia khác như của mình. Họ đã đặt dàn khoan 981 trong vùng EEZ của Việt Nam. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã đúng khi nói rằng Trung Quốc đang tìm cách biến Biển Đông thành “cái ao nhà mình”.
Thứ ba, bên cạnh các hành động trái phép, Trung Quốc còn tập trung vào tuyên truyền và công bố nhằm đưa ra các yêu sách của mình tại các khu vực thuộc chủ quyền của các quốc gia khác.
Sau khi trình bản đồ với “đường lưỡi bò” lên Liên hợp quốc năm 2009, Trung Quốc thành lập Tiểu ban định hướng năm 2012 nhằm hướng dẫn, phối hợp và giám sát, giáo dục và tuyên truyền ý thức về bản đồ quốc gia và kiểm soát toàn bộ thị trường bản đồ quốc gia bằng cách phối kết hợp 13 Bộ ngành. Cuối năm 2012, Trung Quốc ban hành hộ chiếu sinh trắc học với một hình bản đồ Trung Quốc có đường 9 đoạn. Sự việc đã gây phản ứng dữ đội từ các nước láng giềng.
Ngày 1/1/2013, Trung Quốc ban hành một bản đồ mới, lần đầu tiên đánh dấu chi tiết hơn 130 đảo, đá, bãi cạn trên Biển Đông, mà Bắc Kinh coi là thuộc chủ quyền của mình, nằm trong hình chữ U nói trên. Kể từ đó, họ tuyên truyền rằng các yêu sách của mình dựa trên các thực tế lịch sử, điều bị các nước khác bác bỏ.
Thứ tư, đã có những bản đồ mang tính xác thực hơn, trong đó miêu tả chủ quyền của Trung Quốc chỉ giới hạn ở đại lục. Tấm bản đồ mà Thủ tướng Đức Angela Merkel trao cho Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình năm 2014 trong chuyến thăm Đức của ông Tập đã cho thấy rõ điều này. Đó là một tấm bản đồ Trung Quốc năm 1735 do một chuyên gia vẽ bản đồ người Pháp Jean-Baptiste Bourguignon d’Anville vẽ và được một nhà xuất bản Đức in ấn. Tấm bản đồ này cho thấy “Toàn bộ Trung Quốc”, gồm mảnh đất hầu hết do người Hán sinh sống, không có Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ hay Manchuria. Các đảo Đài Loan và Hải Nam - sau này là một phần của Trung Hoa hiện đại, vốn trước đây có tranh chấp rất nhiều - được thể hiện bằng một đường ranh giới có màu khác. Tấm bản đồ này cho thấy Trung Quốc đã bành trướng lãnh thổ từ thế kỷ 18.
Ông Nguyễn Công Giao, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Brunei trong bài phân tích của mình đã đưa ra các lý do khiến Trung Quốc có tham vọng “độc chiếm” Biển Đông, cụ thể
[4]: (i) Lợi ích của Biển Đông là không thể phủ nhận nhất là về tài nguyên dầu khí, tiếp đó là băng cháy. Khu vực Đông Nam Á có lượng băng cháy cực lớn. Đây là nguồn năng lượng của tương lai, có thể sử dụng trong nhiều thế kỷ; (ii) Biển Đông được xác định là một trong bốn khu vực đánh cá chủ yếu của Trung Quốc; (iii) Biển Đông cũng được xác định là con đường sinh mệnh của nền kinh tế Trung Quốc. Trong số 27 tuyến vận tải của Trung Quốc, 17 trong số đó nằm ở Biển Đông. Biển Đông giúp kết nối Trung Quốc với 125 nước và vận chuyển 3/4 lượng dầu nhập khẩu vào nước này; (iv) Về an ninh quốc phòng, đây là một bức trường thành tự nhiên trên biển. Biển Đông như một vành đai quân sự, phòng thủ, là rào cản an ninh để ngăn chặn những rủi ro và uy hiếp từ bên ngoài; (v) Về mặt địa chiến lược, Trung Quốc xác định Biển Đông như sân sau, nơi tập dượt của hải quân Trung Quốc để tiến ra thế giới bên ngoài. Biển Hoa Đông ở phía đông Trung Quốc quá nông, lại có một đối thủ khó nhằn là Nhật Bản án ngữ phía ngoài. Còn đối với Biển Đông, vùng biển này rộng 3,4 triệu ki-lô-mét vuông, độ sâu trung bình là 1.400 mét và có rất nhiều rãnh sâu. Đây là địa điểm tuyệt vời cho sự hoạt động của các loại tàu ngầm. Muốn thành bá chủ toàn cầu, Trung Quốc phải trở thành cường quốc trên biển. Điều này chỉ có thể thực hiện được ở Biển Đông, vùng biển mà xung quanh đó toàn các quốc gia nhỏ bé. Về mặt địa chiến lược, đây là cửa ngõ duy nhất, là bàn đạp để Trung Quốc đi ra thế giới bên ngoài. Do vậy, trong cái nhìn đại chiến lược của người Trung Quốc, Biển Đông có lợi ích sống còn.
Qua nhận định của các tác giả nêu trên, chúng ta có thể thấy rõ tham vọng của Trung Quốc muốn biến Biển Đông trở thành “ao nhà” của mình và trên thực tế từ năm 1949 đến nay, Trung Quốc đã có rất nhiều các hành động nhằm hiện thực hóa tham vọng của mình như: (i) Đưa ra các yếu sách phi lý về chủ quyền và quyền chủ quyền trên Biển Đông; (ii) Thực hiện các biện pháp hành chính, thể hiện Biển Đông và đặc biệt là Hoàng Sa, Trường Sa (của Việt Nam) trên bản đồ, tự ý đặt tên cho các đảo và sát nhập các đảo vào lãnh thổ Trung Quốc; (iii) Áp đặt nội luật của Trung Quốc vào khu vực Biển Đông; (iv) Các hoạt động kiểm soát, khống chế và làm chủ Biển Đông trên thực địa bao gồm việc từng bước thay đổi nguyên trạng của Biển Đông, tạo ra một cục diện quân sự thuận lợi cho Trung Quốc, dần dần khống chế, kiểm soát Biển Đông, tiến tới mục tiêu lâu dài là độc chiếm toàn diện Biển Đông…
1.3. Tình trạng xâm phạm chủ quyền biển, đảo Việt Nam trên Biển Đông
Gần đây, ngày 3/7/2019, Trung Quốc điều tàu Hải Dương 8 được hộ tống bởi 4 tàu hải cảnh và một tàu dân binh, trong đó có tàu hải cảnh 3901 là tàu hạng nặng cỡ 12.000 tấn tới khu vực phía bắc Bãi Tư Chính. Đối mặt với các tàu Trung Quốc vào lúc đó chỉ có 4 tàu cảnh sát biển của Việt Nam.
Bãi ngầm Tư Chính của Việt Nam mà nhóm tàu Hải Dương 8 - Trung Quốc xâm phạm cũng nằm cách xa lục địa Trung Quốc khoảng trên 600 hải lý. Lý luận trước đó của Trung Quốc khi đưa ra yêu sách tranh chấp với Việt Nam là bãi này nằm trong phạm vi “đường lưỡi bò” phi lý và đơn phương của Trung Quốc hoặc là một phần của cái gọi là “vùng nước quần đảo Trường Sa”. Tuy vậy, phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) năm 2016 đã bác bỏ điều này.
Không thể dùng cái gọi là “đường lưỡi bò” hoặc “vùng nước quần đảo Trường Sa” để biện minh rằng vùng biển Bãi Tư Chính của Việt Nam là vùng tranh chấp. Khu vực này như theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (Công ước Luật biển năm 1982) hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, không phải vùng tranh chấp. Trong lịch sử cũng như trên thực tế, Việt Nam cũng đang kiểm soát và khai thác dầu khí tại đây.
2. Các biện pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông
Nguyên tắc chính trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền biển đảo Việt Nam đó là các biện pháp hòa bình, “phi quân sự” trên Biển Đông. Theo đó, chúng ta ưu tiên thông qua con đường ngoại giao và pháp lý, cụ thể như sau:
2.1. Đấu tranh thông qua hình thức trao đổi công hàm và các phát ngôn chính thức
Trước những hành động “gây hấn” của Trung Quốc trên Biển Đông, phía Việt Nam thường sử dụng các biện pháp ngoại giao để phản đối như trao đổi công hàm và đưa ra những phát ngôn chính thức.
Ví dụ như liên quan đến việc Trung Quốc bố trí tên lửa tại các cấu trúc mà nước này đã xây dựng trái phép thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Một lần nữa, Việt Nam khẳng định có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.
Việt Nam hết sức quan ngại trước các thông tin nêu trên và khẳng định mọi hoạt động quân sự hóa, bao gồm cả việc bố trí tên lửa trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa, đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, vi phạm Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (DOC), làm gia tăng căng thẳng, gây mất ổn định trong khu vực và không có lợi cho nỗ lực của các nước trong đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử tại Biển Đông hiện nay (COC).
Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc với tư cách là quốc gia lớn ở khu vực và thế giới, thể hiện trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, không tiến hành quân sự hóa, rút các trang thiết bị quân sự triển khai trái phép trên các cấu trúc thuộc chủ quyền của Việt Nam, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuân thủ nghiêm túc Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc”.
Gần đây nhất là nhóm khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước Luật biển năm 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên, phía Việt Nam đã nhiều lần tiếp xúc với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Bên cạnh việc tiếp xúc và trao công hàm cho phía Trung Quốc, thì thông qua các phát ngôn chính thức của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm của mình, cụ thể: Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực. Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam.
Theo Người phát ngôn Thu Hằng, duy trì trật tự, hòa bình, an ninh ở khu vực Biển Đông là lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực cũng như cộng đồng quốc tế. Do đó, Việt Nam mong muốn các nước liên quan và cộng đồng quốc tế cùng nỗ lực đóng góp nhằm bảo vệ và duy trì lợi ích chung này. Như đã khẳng định tại phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao ngày 16/7/2019, lập trường nhất quán của Việt Nam là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển năm 1982 trước bất cứ hành vi nào xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với Công ước Luật biển năm 1982.
2.2. Đấu tranh thông qua các diễn đàn quốc tế, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Việt Nam cần tranh thủ đưa các vấn đề Biển Đông ra các diễn đàn quốc tế và khu vực, đặc biệt là khu vực ASEAN để tăng khối đoàn kết gây sức ép đối với Trung Quốc. Hiện thực hóa biện pháp đấu tranh này, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 52 (AMM-52) (khai mạc sáng 31/7/2019 tại Bangkok, Thái Lan) do Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh dẫn đầu, các Bộ trưởng đã thảo luận sâu rộng về tình hình Biển Đông, ghi nhận quan ngại về các hoạt động tôn tạo bồi đắp, đặc biệt là những sự cố nghiêm trọng đang diễn ra trên Biển Đông, đã làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và gây phương hại tới hòa bình, an ninh và ổn định khu vực. Theo đó, ASEAN tái khẳng định tầm quan trọng của việc tuân thủ luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển năm 1982, kêu gọi các bên kiềm chế, không quân sự hóa và tránh có các hành động làm phức tạp tình hình; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982. Các nước ASEAN cam kết duy trì tiếp tục nỗ lực thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) hiệu lực, thực chất.
Phó Thủ tướng Việt Nam tại hội nghị đã nhấn mạnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, trong đó có các hành động đơn phương như quân sự hóa, gia tăng tập trận quân sự, đặc biệt là tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc được các tàu hải cảnh và dân binh hộ tống xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, tiến hành các hoạt động khảo sát trái phép. Phó Thủ tướng nhấn mạnh những hành động này vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo Công ước Luật biển 1982. Nghiêm trọng hơn, đây là diễn biến tiếp theo các hoạt động cải tạo bồi đắp quy mô lớn và quân sự hoá các cấu trúc tranh chấp trên biển. Các diễn biến này làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và ảnh hưởng trực tiếp tới hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, vi phạm DOC và đi ngược lại cam kết duy trì môi trường thuận lợi cho đàm phán COC. Trong bối cảnh đó, Phó Thủ tướng đề nghị ASEAN giữ vững đoàn kết và tiếng nói chung, tái khẳng định các nguyên tắc và cam kết đối với hoà bình và ổn định, lên tiếng kêu gọi kiềm chế, không có các hành động đơn phương làm phương hại tiến trình đối thoại và hợp tác khu vực, cản trở hoạt động kinh tế hợp pháp của các nước ven biển; và nỗ lực xây dựng một COC hiệu lực, thực chất.
2.3. Đấu tranh thông qua việc kêu gọi sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế
Sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam là hết sức quan trọng. Những hành động của Trung Quốc diễn ra trên Biển Đông cho thấy, Trung Quốc không bao giờ từ bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông. Việc xây dựng đảo, quân sự hóa trên các đảo nhân tạo, thăm dò khai thác trên vùng biển của một số quốc gia khác trong khu vực Biển Đông sẽ diễn ra tùy theo từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, mối nguy hiểm lớn nhất lúc này không phải việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo - điều vốn dĩ Trung Quốc đã làm rồi, mà là khả năng khiến các nước khác phải chấp nhận cách hành xử trái với luật pháp quốc tế của Trung Quốc.
Trước những hành động phi lý của Trung Quốc, cộng đồng quốc tế, khu vực và các nước lớn cần có những quan điểm rõ ràng, phản bác luận điệu và hành động vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển của Trung Quốc. Trong đời sống văn minh hiện nay, hệ thống luật pháp quốc tế là những chuẩn mực công lý để bảo vệ lẽ phải và trật tự, cộng đồng quốc tế cần phải chung sức bảo vệ và nỗ lực tuân thủ nó. Nếu một số nước sẽ bất tuân thủ luật pháp quốc tế, chỉ dùng sức mạnh quân sự để từ chối chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia khác sẽ làm suy yếu hệ thống pháp luật quốc tế, luật biển quốc tế hiện đại. Đây có thể coi là một trong những “vũ khí” mà Việt Nam có thể dựa vào trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
2.4. Đấu tranh thông qua con đường pháp lý
Thứ nhất, phải nắm vững luật pháp quốc tế, đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Thúc đẩy các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công tác quản lý biển, đảo, biên giới, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển”
[5]. Đây là quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, là định hướng cho các cấp, các ngành, các lực lượng quán triệt và thực hiện trong quá trình giải quyết các vấn đề về biên giới, vùng biển với các nước láng giềng, khu vực. Để giải quyết vấn đề biên giới với các nước trong khu vực, phải dựa trên các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế và đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta để thỏa thuận với các nước liên quan về những nguyên tắc cụ thể, nhằm tìm ra giải pháp cơ bản, hài hòa và hợp lý. Phải căn cứ vào Công ước Luật biển năm 1982 và Tuyên bố về Quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) để đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thông qua đàm phán giải quyết, xây dựng đường biên giới ổn định lâu dài.
Thứ hai, chuẩn bị hồ sơ lịch sử và pháp lý đầy đủ nhằm bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sẵn sàng đưa vụ việc ra Tòa Trọng tài quốc tế về luật biển hoặc Tòa án công lý quốc tế.
Có thể thấy, Việt Nam đã và đang tích cực sưu tập và lưu giữ các chứng cứ, tài liệu liên quan đến chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cụ thể: Phiên bản của các văn bản Hán Nôm, văn bản Việt ngữ và Pháp ngữ do triều đình phong kiến Việt Nam và chính quyền Pháp ở Đông Dương, thay mặt nhà nước Việt Nam đương thời, ban hành từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, khẳng định quá trình xác lập, thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đặc biệt là các châu bản triều Nguyễn (từ triều Gia Long đến triều Bảo Đại) ban hành liên quan trực tiếp đến vấn đề khai thác, quản lý, xác lập và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dưới triều Nguyễn (1802 - 1945); phiên bản của các văn bản hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam ban hành trong thời kỳ 1954 - 1975 tiếp tục khẳng định quá trình quản lý hành chính, thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; phiên bản của các văn bản hành chính của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành từ năm 1975 đến nay tiếp tục khẳng định thực thi và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và những vùng biển đảo khác thuộc lãnh thổ Việt Nam; một số tư liệu, ấn phẩm do các nước phương Tây biên soạn và xuất bản từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; sưu tập gồm 65 bản đồ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, do Việt Nam, phương Tây công bố từ thế kỷ XVII đến nay; sưu tập gồm 4 tập bản đồ (atlas) và 30 bản đồ do các nhà nước Trung Quốc xuất bản và phát hành chính thức qua các thời kỳ lịch sử cho thấy Trung Quốc không hề quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là Xisha và Nansha và đòi hỏi chủ quyền đối với hai quần đảo này. Một trong những tài liệu vô giá, không chỉ về mặt học thuật, mà còn là một tài liệu có giá trị pháp lý góp thêm vào bộ hồ sơ chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là Bộ Atlas Universel do Philippe Vandermaelen (1795 - 1869), nhà địa lý học người Bỉ, người sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ biên soạn, gồm 6 tập: Châu Âu (tập 1), Châu Á (tập 2), Bắc Mỹ (tập 3), Nam Mỹ (tập 4), Châu Phi (tập 5) và Châu Úc (tập 6), xuất bản tại Bruxelles (Bỉ) vào năm 1827
[6].
Thứ ba, tại các vùng biển nằm trong khu vực còn tranh chấp với các quốc gia ven biển khác như: Khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ (giữa Việt Nam và Trung Quốc); vùng nước lịch sử (giữa Việt Nam và Campuchia); vùng biển chồng lấn trong vịnh Thái Lan (giữa Việt Nam và Malaysia)… Chúng ta tiếp tục thúc đẩy các cuộc đàm phán nhằm đạt được hiệp định chung trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là những quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 và các Tuyên bố của khu vực về Biển Đông như DOC. Vận dụng hệ thống quy chế pháp lý quốc tế để đàm phán giải quyết mọi bất đồng, mâu thuẫn về quan điểm chủ quyền và tranh chấp chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán về biển đảo trong khu vực bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực là yêu cầu cấp thiết đối với các quốc gia có liên quan.
Tóm lại, Việt Nam phải biết khai thác hiệu quả hơn nữa công cụ ngoại giao đa phương và chuẩn bị sẵn sàng công cụ pháp lý trong tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc. Vai trò của công luận, chủ nghĩa đa phương và luật pháp quốc tế ngày càng quan trọng trong quan hệ quốc tế trong thế kỷ XXI. Bởi vậy, việc tiếp tục theo đuổi chiến lược “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông sẽ góp phần làm chậm lại tốc độ hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, tập hợp thêm lực lượng bên ngoài ủng hộ các lợi ích chính đáng của Việt Nam. Bản thân việc “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông tự nó không thay thế được việc đàm phán song phương và đa phương nhằm giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông, nhưng nó góp phần giúp Việt Nam tránh kịch bản xấu nhất trong vấn đề Biển Đông. Trong quá trình này, việc tiếp tục sử dụng các cơ chế do ASEAN dẫn dắt có vai trò rất quan trọng. Mặc dù bản chất vẫn lỏng lẻo, dễ bị Trung quốc phân hóa, song đến nay ASEAN vẫn là diễn đàn quan trọng nhất để Việt Nam tập hợp lực lượng và “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông. Vì vậy, việc chủ động, tích cực hơn nữa phát huy vai trò dẫn dắt trong ASEAN cùng các nước nòng cốt như Indonesia, Singapore... là lợi ích chiến lược của Việt Nam, góp phần hạn chế bớt khả năng phải đơn độc đối phó với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông
[7].
Quỳnh Vũ
Ảnh ST: tuyengiao.vn
[1] Khái quát về Biển Đông và vùng biển Việt Nam, tham khảo trực tuyến tại: http://tapchiqptd.vn/vi/an-pham-tap-chi-in/khai-quat-ve-bien-dong-va-vung-bien-viet-nam/3213.html, đăng tải ngày 14/8/2011.
[2] Hàng chục tàu Trung Quốc gây sức ép lên Việt Nam ở bãi Tư Chính, tham khảo trực tuyến tại: http://vietinfo.eu/chuyen-muc-bien-dong/hang-chuc-tau-trung-quoc-gay-suc-ep-len-viet-nam-o-bai-tu-chinh.html, đăng tải ngày 5/8/2019.
[3] Đường chữ U liền nét ở Biển Đông: Chiêu trò mới cho mục đích phi lý, tham khảo trực tuyến tại http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tieudiem/duong-chu-u-lien-net-o-bien-dong-chieu-tro-moi-cho-muc-dich-phi-ly-454160.html, đăng tải ngày 02/6/2018.
[4] Mưu đồ chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông, tham khảo trực tuyến tại: https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/muu-do-chien-luoc-cua-trung-quoc-o-bien-dong-552076.html, đăng tải ngày 21/7/2019.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, H. 2011, tr. 237.
[6] Triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” tại Kiên Giang, tham khảo trực tuyến tại http://biengioibienbentre.vn/noi-dung/trien-lam-hoang-sa-truong-sa-cua-viet-nam-nhung-bang-chung-lich-su-va-phap-ly-tai-kien.