Tác động của Fintech đối với hệ thống ngân hàng - Thực tiễn và một số đề xuất pháp lý
Sign In

Tác động của Fintech đối với hệ thống ngân hàng - Thực tiễn và một số đề xuất pháp lý

 
Tóm tắt: Fintech được hiểu là ứng dụng công nghệ hiện đại trong quá trình phân phối và sử dụng dịch vụ tài chính, đầu tư. Xu hướng hợp tác của ngân hàng - Fintech tại Việt Nam đang ngày càng trở nên sôi động, từ đó, thách thức về sự bảo mật và mức độ an toàn của ngân hàng trong cuộc “bắt tay” này được đề cao hơn bao giờ hết. Từ nghiên cứu sự tác động của Fintech đến hệ thống của ngân hàng, bài viết sẽ đưa ra những đề xuất nhằm xây dựng hành lang pháp lý bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng - Fintech trong thời đại công nghệ số.
 
Abstract: Fintech is understood as the application of modern technology in the process of distributing and using financial and investment services. The trend of banking - Fintech cooperation in Vietnam is becoming more and more exciting, since then, the challenge of security and safety level of banks in this "handshake" is higher than ever. From studying the impact of Fintech on the banking system, the article will make recommendations to build a legal corridor to ensure the safety of the banking system - Fintech in the digital age.
 
1. Khái quát chung về Fintech
Fintech là một khái niệm mới xuất hiện gần đây, là thuật ngữ tiếng Anh được kết hợp bởi Finance (tài chính) và Technology (công nghệ), hiểu đơn giản là công nghệ tài chính. Theo đó, Fintech được hiểu là những sản phẩm, ứng dụng, dịch vụ, quy trình… mới của công nghệ được áp dụng vào thị trường tài chính. Từ đó, giúp nâng cao hiệu suất và hoàn thiện hơn các dịch vụ, sản phẩm tài chính để phù hợp với thời đại internet, giúp người tiêu dùng thuận tiện hơn và sử dụng nhanh chóng hơn khi có nhu cầu. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về mặt pháp lý đối với thuật ngữ này.
Fintech được ứng dụng trong những lĩnh vực đặc trưng như: Thanh toán (các định chế tài chính), cho vay ngang hàng (P2P lending)[1], gọi vốn cộng đồng (crowd funding)…; quản lý tài sản (wealth management), tự động hóa đầu tư chứng khoán (robo trading); công nghệ bảo hiểm (insurtech); tiền kỹ thuật số (bitcoin), công nghệ blockchain; quản lý tài chính cá nhân. Nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động của ngân hàng và đầu tư, Fintech được sử dụng chung cho các công ty sử dụng internet, điện thoại di động, công nghệ điện toán đám mây, các phần mềm mã nguồn mở. Thông thường, các công ty Fintech được chia thành 02 nhóm chính: 
Nhóm 1: Các công ty phục vụ người tiêu dùng, cung cấp các công cụ kỹ thuật số nhằm nâng cao cách các cá nhân vay mượn, tài trợ vốn cho doanh nghiệp mới thành lập, quản lý tiền bạc.
Nhóm 2: Các công ty thuộc dạng “bank-office”, chuyên hỗ trợ công nghệ cho các định chế tài chính. 
Nhìn chung, công ty Fintech là các doanh nghiệp ứng dụng trong lĩnh vực công nghệ thông tin để tạo ra các dịch vụ tài chính mới tốt hơn cho cả người tiêu dùng và doanh nghiệp. Điểm nổi trội của công ty Fintech trên thị trường dịch vụ tài chính nằm ở tốc độ thanh toán nhanh (các khoản thanh toán ngang hàng), thuận tiện trong quản lý tài chính cá nhân, khả năng tiếp cận khoản vay (tài trợ cộng đồng, gọi vốn cộng đồng). Bên cạnh đó, công ty Fintech cũng mang đến nhiều lợi ích cho ngân hàng, doanh nghiệp và người sử dụng như: Giảm chi phí tìm kiếm của các bên giao dịch phù hợp; đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô trong thu thập và khai thác dữ liệu lớn; giao dịch trở nên an toàn hơn và rẻ; giảm chi phí xác minh.
2. Thực tiễn hoạt động của Fintech trong lĩnh vực ngân hàng
Theo khảo sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hệ sinh thái Fintech tại Việt Nam, phần lớn dịch vụ Fintech cung cấp tại Việt Nam thuộc lĩnh vực ngân hàng hoặc có bản chất giống hoạt động ngân hàng như thanh toán, cho vay, huy động vốn, dịch vụ tài chính cá nhân, chấm điểm tín dụng hay các giải pháp ứng dụng vào hoạt động của các tổ chức tín dụng[2]… Tuy nhiên, các công ty Fintech sẽ không thay thế các ngân hàng trong hầu hết các chức năng chính của ngân hàng (chức năng trung gian của ngân hàng vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong thị trường tài chính), trong đó, một phần được thực hiện dựa trên internet và các nền tảng trực tuyến; xử lý các thông tin cứng thông qua dữ liệu lớn. Sự tham gia mạnh mẽ của các công ty Fintech vào thị trường dịch vụ tài chính buộc các ngân hàng phải nâng cấp năng lực và chuyển đổi để có thể cạnh tranh và tham gia vào những lĩnh vực mới, điều đó thể hiện thông qua mô hình hợp tác giữa ngân hàng và Fintech là cần thiết trong thời đại công nghệ số.
Hoạt động Fintech ở Việt Nam hiện nay tác động lớn nhất đến ba lĩnh vực thuộc Ngành Tài chính - Ngân hàng, đó là thanh toán điện tử, cho vay tiêu dùng và quản lý tài chính cá nhân.
2.1. Hoạt động thanh toán điện tử
Fintech giúp phát triển những dịch vụ tài chính như: Internet Banking, Mobile Banking, ví điện tử… tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiết kiệm được chi phí giao dịch. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đều theo xu thế ứng dụng Fintech trong thanh toán, cụ thể là cổng thanh toán trực tuyến, ví điện tử, thanh toán di động…
- Thanh toán trực tuyến: Để sử dụng thanh toán trực tuyến, người tiêu dùng cần có một tài khoản trên một dịch vụ trung gian nào đó và liên kết tài khoản đó với ngân hàng, hiện nay có một số cổng thanh toán phổ biến như: OnePay, VnPay, VTCPay…
- Thanh toán bằng ví điện tử: Với hình thức thanh toán này, người tiêu dùng phải sở hữu các ví điện tử như của Momo, VCash… từ đó có thể thanh toán trực tuyến trên một số website đã chấp nhận ví điện tử này. Ví điện tử có thể được gắn kết với tài khoản ngân hàng để chuyển tiền giữa ví điện tử và tài khoản. Ngoài ra, người tiêu dùng có thể nạp tiền vào ví bằng cách nộp tiền mặt, chuyển khoản. Chi phí phải trả cho hình thức này tương đối thấp, chi phí đăng ký dịch vụ thường được miễn phí.
- Thanh toán bằng thiết bị di động thông minh: Hệ thống thanh toán qua điện thoại được xây dựng trên mô hình liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng, các nhà cung cấp viễn thông, hệ thống tiêu dùng, người tiêu dùng. Với dịch vụ này khi đi mua sắm, người tiêu dùng không cần phải mang theo tiền mặt mà thay vào đó là thanh toán trực tuyến thông qua điện thoại di động thông minh với dịch vụ Mobile Banking.
2.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng
Mô hình cho vay ngang hàng (P2P - kết nối trực tiếp người đi vay và người cho vay trên internet) của các công ty Fintech với các gói vay đa dạng và đáp ứng nhu cầu khách hàng, theo đó, Fintech chấp nhận rủi ro để tiếp cận với các khách hàng chưa từng là khách hàng của ngân hàng hoặc khách hàng dưới chuẩn của ngân hàng. Giao dịch trực tuyến giúp các công ty Fintech giải ngân quỹ vay đến khách hàng nhanh chóng hơn, khách hàng nhận thấy vay vốn trực tuyến thuận tiện hơn, vì họ có thể nhận tiền ngay tức thì mà không phải chờ đợi. Với hình thức vay vốn trực tuyến, các công ty sẽ không phải chịu nhiều các khoản chi phí về mặt bằng, điện, nước, lương nhân viên... để duy trì hoạt động nên mức lãi suất của các dịch vụ cho vay trực tuyến trở nên hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc cập nhật công nghệ còn chưa đồng bộ giữa các tổ chức, doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung cũng như giữa các tổ chức tài chính - ngân hàng nói riêng và ngay cả trong hệ thống tài chính, ngân hàng. Điều này dẫn đến nhiều khó khăn hơn cho các Fintech khi muốn tận dụng hay phối hợp với các tổ chức tài chính để cung cấp sản phẩm dịch vụ. 
3. Pháp luật về Fintech trong lĩnh vực ngân hàng và một số đề xuất pháp lý
3.1. Thực trạng pháp luật về Fintech trong mối quan hệ với hệ thống ngân hàng
Trước xu thế phát triển mạnh mẽ và tất yếu của Fintech, Việt Nam đã triển khai các kế hoạch phát triển như: Chương trình phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2014 - 2020 (ban hành theo Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 11/5/2014 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án “Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020” (ban hành theo Quyết định số 2545/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” (ban hành theo Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án “Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ” (ban hành theo Quyết định số 999/QĐ-TTg ngày 12/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ); Đề án “Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025” (ban hành theo Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ)... Trong đó, Thủ tướng Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, xây dựng đề án cơ chế quản lý thử nghiệm (Sandbox) cho hoạt động Fintech, nghiên cứu cơ chế thí điểm hoạt động cho vay ngang hàng... Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 06/9/2021 về việc thông qua đề nghị xây dựng Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng. Trong quá trình thử nghiệm, cơ quan quản lý nhà nước theo dõi chặt chẽ đối với tất cả rủi ro phát sinh, đánh giá rủi ro, tác động của nó cũng như khả năng thất bại và thành công của giải pháp. Sau quá trình thử nghiệm, sẽ có đánh giá giải pháp hiệu quả, có tác động tích cực đến sự đổi mới sáng tạo và phát triển của hệ thống tài chính, ngân hàng, kiểm soát tốt rủi ro…, từ đó, xem xét cho triển khai chính thức.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 16/2020/TT-NHNN ngày 04/12/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2014/TT-NHNN ngày 19/8/2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (Thông tư số 16/2020/TT-NHNN); bên cạnh đó, dự thảo Nghị định quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng đang trong quá trình tiếp nhận ý kiến đóng góp của các bên liên quan. Ngân hàng Nhà nước cũng đã cơ bản hoàn thành việc nghiên cứu một số lĩnh vực trọng tâm của Fintech, bao gồm: Công nghệ Blockchain/sổ cái phân tán (DLT); cho vay ngang hàng; giao diện lập trình ứng dụng mở (Open API); công nghệ định danh và nhận biết khách hàng điện tử (e-KYC) dựa trên việc học hỏi, nghiên cứu các trường hợp điển hình trên thế giới. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã có những bước tiến chủ động trong việc bổ sung, sửa đổi khuôn khổ pháp lý hiện hành để tháo gỡ các khúc mắc trong hoạt động của Fintech, bao gồm: Cho phép các tổ chức tín dụng tùy chọn phương án công nghệ để định danh khách hàng từ xa; phối hợp với Bộ Công an để kết nối với cơ sở dữ liệu dân cư phục vụ xác thực khách hàng qua phương tiện điện tử; ban hành tiêu chuẩn đặc tả kỹ thuật về QR Code; sửa đổi, bổ sung các quy định về tiền ảo, tiền điện tử, thanh toán trực tuyến, hoạt động đại lý thanh toán...
3.2. Một số đề xuất pháp lý về hoạt động của Fintech trong lĩnh vực ngân hàng
Nhìn chung, hệ sinh thái Fintech Việt Nam đang ở giai đoạn đầu hình thành và còn non trẻ. Với những điều kiện hiện tại, để thúc đẩy được sự phát triển của hệ sinh thái này rất cần những biện pháp quyết liệt, mạnh mẽ và thực chất của Nhà nước, trong đó, việc cải thiện về khung pháp lý là một nhu cầu cấp bách đặt ra trong thời gian tới. Theo đó, tác giả đề xuất một số nội dung pháp lý về hoạt động của Fintech trong lĩnh vực ngân hàng cụ thể như sau:
Một là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với các lĩnh vực/dịch vụ cụ thể của Fintech.
- Đối với hoạt động thanh toán: Trong bối cảnh công nghệ mới ngày càng phát triển được ứng dụng vào các mô hình, nghiệp vụ mới (ngoài các dịch vụ thanh toán gắn với tài khoản hiện nay với một ví điện tử lưu trữ trên các phương tiện điện tử đem lại nhiều tiện lợi, đơn giản, thanh toán đa dạng các hàng hóa, dịch vụ...) đòi hỏi các chính sách, giải pháp quản lý hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cần phải rà soát, chỉnh sửa, bổ sung để phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được vai trò quản lý nhà nước hiệu quả trong hoạt động này. 
- Đối với hoạt động huy động vốn và cho vay trên nền tảng công nghệ cao: Hoạt động này chưa có quy định pháp luật quản lý chuyên ngành nên cần tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật có liên quan (Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Giao dịch điện tử, Luật An ninh mạng...) và cần sự phối hợp, tham gia của nhiều bộ, ngành có liên quan.
- Đối với giải pháp dịch vụ liên quan e-KYC: Thông tư số 16/2020/TT-NHNN đã có quy định về triển khai e-KYC, tuy nhiên, việc triển khai e-KYC trên cơ sở áp dụng công nghệ mới, hướng tới các giao dịch trực tuyến có nguồn cung cấp thông tin định danh khách hàng rất đa dạng, có thể dẫn tới việc mỗi đơn vị cung cấp sẽ có một quy trình thực hiện e-KYC khác nhau gây lãng phí chi phí, không thống nhất. Do đó, cần quy định cụ thể về việc điều chỉnh, bổ sung quy định về chia sẻ, xác thực thông tin khách hàng giữa các tổ chức tín dụng với nhau hoặc cho phép chia sẻ thông tin liên quan tới khách hàng cho một tổ chức cung cấp và xác minh thông tin định danh khách hàng điện tử để thiết lập một dữ liệu điện tử về nhận biết khách hàng.
- Đối với công nghệ Blockchain: Ngân hàng Nhà nước cần sớm cho phép một số ngân hàng thương mại thử nghiệm các ứng dụng công nghệ Blockchain trong một phạm vi cho phép tại các ngân hàng, để các ngân hàng vừa ứng dụng, vừa nghiên cứu, đúc kết ra những hiệu quả của công nghệ Blockchain với ngân hàng mình, từ đó từng bước ứng dụng rộng rãi hơn công nghệ này trong tương lai.
Hai là, quy định về quản lý, giám sát đối với Fintech.
 Quy định rõ các cơ quan có thẩm quyền quản lý, giám sát đối với hoạt động Fintech, cũng như xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý giám sát tài chính thuộc các lĩnh vực ngân hàng - chứng khoán - bảo hiểm để phát hiện rủi ro hiện hữu và tiềm ẩn. Tại một số quốc gia, Chính phủ có thể quy định cấm một vài hoạt động trong lĩnh vực Fintech, trong khi một số quốc gia lại có những phương pháp quản lý khác. Ví dụ: Chính phủ Trung Quốc đã ban hành quy định cấm việc phát hành và kinh doanh các loại tiền kỹ thuật số không chính thức cũng như việc thành lập và vận hành các sàn giao dịch tiền kỹ thuật số. Đối với các hoạt động tài chính khác, quốc gia này tăng cường quản lý và kiểm tra giám sát các doanh nghiệp và các nền tảng internet lớn bằng cách quy định các điều kiện cơ bản để cung ứng dịch vụ, bảo mật thông tin, ứng dụng kỹ thuật... Trong khi đó, tại Singapore, Ngân hàng Trung ương Singapore (MAS) lại không đưa ra các lệnh cấm hoàn toàn các hoạt động Fintech kể cả trao đổi tiền điện tử, mà cơ quan này hướng đến việc bảo đảm giám sát các hoạt động Fintech theo đúng quy định của pháp luật và cung cấp đầy đủ thông tin cho các chủ thể liên quan. Với một số lĩnh vực nhạy cảm như tiền ảo, MAS đưa ra thông tin khuyến cáo, xác định đây là một sản phẩm không được quản lý nên khi đầu tư, các nhà đầu tư cần nhận biết về rủi ro liên quan đến nó. Qua những thực tế chính sách tại các quốc gia trong khu vực, Việt Nam có thể áp dụng cho cơ chế thử nghiệm một cách phù hợp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.
Ba là, quy định về các vấn đề liên quan khác.
Cần ban hành thống nhất các quy định pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng; phòng, chống rửa tiền; bảo mật thông tin cá nhân; quy định về trách nhiệm công bố thông tin, trách nhiệm về báo cáo đối với giao dịch liên quan. Đây là các quy định cần thiết để hạn chế các rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động này, bảo đảm sự phát triển bền vững của Fintech trong nền kinh tế. Thông qua việc áp dụng các cơ chế thử nghiệm có kiểm soát một cách hợp lý, từ đó dần tạo dựng một khung pháp lý về Fintech rõ ràng, vấn đề tìm kiếm giải pháp cân bằng giữa mục tiêu bảo đảm ổn định hệ thống tài chính và khuyến khích các sáng tạo mang tính đột phá có thể được giải quyết trong thời gian tới ở Việt Nam.
Sự phát triển mạnh mẽ của Fintech thời gian qua cho thấy, đây là lĩnh vực sẽ tiếp tục thu hút các nhà đầu tư và có tốc độ phát triển đột phá trong thời gian tới. Việc hợp tác cùng có lợi giữa các công ty Fintech và hệ thống ngân hàng là xu thế tất yếu không chỉ tại Việt Nam mà còn trên toàn cầu. Các ngân hàng cần nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ, hiện đại hóa quy trình hoạt động để có nền tảng tốt nhất khi kết hợp với các công ty Fintech. Với những lợi thế nhất định, cùng sự kết hợp với các công ty Fintech, hứa hẹn hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, phục vụ khách hàng tốt hơn.
ThS. Lương Thị Linh Chi
Khoa Luật, Đại học Mở Hà Nội
 
 
 
 
[1]. Peer-to-peer lending (P2P) là hình thức cho đầu tư trực tiếp và không cần thế chấp thông qua nền tảng trực tuyến (P2P) và thực hiện qua một website. Các khoản đầu tư ở hình thức này thường nhỏ và ngắn hạn.
[2]. “Tác động của Fintech đối với hệ thống ngân hàng - Một số hàm ý chính sách cho Việt Nam”,  https://tapchinganhang.gov.vn/tac-dong-cua-fintech-doi-voi-he-thong-ngan-hang-mot-so-ham-y-
chinh-sach-cho-viet-nam.htm#:~:text=Theo%20kh%E1%BA%A3o%20s%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20NHNN,
%C4%91%E1%BB%99ng%20c%E1%BB%A7a%20c%C3%A1c%20t%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c, truy cập ngày 10/6/2022.