Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ra đời là một giải pháp kinh tế quan trọng, tạo ra cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm dân sự đối với các chủ thể có hành vi làm ô nhiễm môi trường, giúp giải quyết các vấn đề môi trường, khắc phục tình trạng ô nhiễm và chia sẻ gánh nặng rủi ro cho doanh nghiệp sản xuất.
Trong bài viết “Bất cập của pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp tại Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện” tác giả Nguyễn Minh Thư đã đi sâu phân tích một số nội dung chính như: (i) Một số bất cập của pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp; (ii) Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp.
1. Một số bất cập của pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường (TNBTTHDGONMT) ra đời là một giải pháp kinh tế quan trọng, tạo ra cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm dân sự đối với các chủ thể có hành vi làm ô nhiễm môi trường, giúp giải quyết các vấn đề môi trường, khắc phục tình trạng ô nhiễm và chia sẻ gánh nặng rủi ro cho doanh nghiệp sản xuất. Bảo hiểm TNBTTHDGONMT được quy định trong nhiều đạo luật khác nhau như: Bộ luật Hàng hải năm 2015 (Chương XVIII), Luật Khoáng sản năm 2010 (Điều 33), Luật Tài nguyên nước năm 2012 (Điều 76), Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, được sửa đổi, bổ sung năm 2019 - sau đây gọi là Luật Kinh doanh bảo hiểm (Mục 4); Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 602); Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 (Điều 167) trên cơ sở kế thừa những đạo luật cùng tên đã ra đời và hết liệu lực trước đó cùng với các nhóm văn bản dưới luật (Phụ lục 1)… Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam mới chỉ áp dụng được chế độ bảo hiểm đối với thiệt hại về môi trường do sự cố tràn dầu trên thực tế do Việt Nam là thành viên của Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm dầu năm 1992 (gọi tắt là CLC 1992) vào ngày 17/6/2004. CLC 1992 đặt ra mức trách nhiệm của chủ tàu đối với thiệt hại ô nhiễm dầu do các sự cố hàng hải liên quan đến tàu chở dầu gây ra. Còn đối với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác cho đến nay, bảo hiểm TNBTTHDGONMT vẫn chưa thực sự được triển khai một cách đồng bộ trong thực tế, mặc dù được đề cập rõ hơn trong Điều 31 Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường về các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh phải có trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường và các văn bản dưới luật khác. Các quy định này mới dừng lại mang tính nguyên tắc, không thống nhất, gây khó khăn lớn đối với các cơ quan tư pháp khi xem xét, giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây nên.
Ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật Kinh doanh bảo hiểm. Thực tế quá trình áp dụng bảo hiểm ô nhiễm cũng cho thấy, do thiếu quy phạm xử lý mối quan hệ giữa các đạo luật chuyên ngành nên pháp luật về bảo hiểm ô nhiễm thường xuyên có sự chồng lấn, mâu thuẫn, có khá nhiều lúng túng, vướng mắc, cần phải có các quy định cụ thể về việc giải quyết các trường hợp tranh chấp, đòi bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường gây ra sẽ được áp dụng theo quy định trong văn bản quy phạm pháp luật nào (Luật Bảo vệ môi trường, Bộ luật Dân sự hay Luật Kinh doanh bảo hiểm). Một số quy định trong các văn bản luật này còn có nội dung không rõ ràng, dẫn chiếu một cách chung chung trong khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Kinh doanh bảo hiểm lại chưa tính đến các yếu tố đặc thù trong lĩnh vực môi trường mà không thể áp dụng những quy định chung của Bộ luật Dân sự năm 2015. Một số vấn đề pháp lý quan trọng như phí bảo hiểm, đối tượng tham gia bảo hiểm, cách thức quản lý, chính sách khuyến khích, hỗ trợ tham gia thị trường bảo hiểm... trong lĩnh vực đặc thù của bảo hiểm ô nhiễm vẫn chưa được đề cập. Trong khi đó, nhận thức của cơ quan quản lý, người dân và doanh nghiệp về bảo hiểm ô nhiễm vẫn còn rất hạn chế. Đối với loại hình bảo hiểm đặc biệt này, việc nghiên cứu, đánh giá rủi ro cho từng lĩnh vực sản xuất để đưa ra mức phí bảo hiểm, mức chi trả đền bù thiệt hại phù hợp là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Do không tính toán được đầy đủ các rủi ro môi trường và khoản tiền bồi thường nên một số công ty bảo hiểm Việt Nam không có nhu cầu tham gia cung ứng sản phẩm bảo hiểm này ở Việt Nam vì đây là thị trường bảo hiểm không tiềm năng và không được sự hỗ trợ quan tâm nhiều từ phía nhà nước. Vì thế, các vụ việc gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của các doanh nghiệp sản xuất vẫn liên tục tiếp diễn xảy ra nhưng người bị thiệt hại thì vẫn không được bồi thường vì các khoản bồi thường môi trường thường cao quá sức tài chính của doanh nghiệp.
Thông qua việc nghiên cứu các sản phẩm bảo hiểm tương tự, cũng như tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, thì việc áp dụng sản phẩm bảo hiểm TNBTTHDGONMT ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn. Thị trường bảo hiểm ô nhiễm ở Việt Nam đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức như: (i) Sự vắng mặt của luật pháp quốc gia làm suy yếu cơ sở pháp lý của bảo hiểm ô nhiễm trong các lĩnh vực; (ii) Năng lực thực thi pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường; (iii) Mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh về trách nhiệm môi trường và xã hội thấp dẫn đến nhu cầu hạn chế về các sản phẩm bảo hiểm ô nhiễm; (iv) Hạn chế của các tổ chức hỗ trợ xác định kỹ thuật khi xác định thiệt hại; (v) Sự phát triển chậm chạp của pháp luật và các môi trường tranh tụng đã hạn chế người bị thiệt hại tiếp cận công lý; (vi) Các sản phẩm bảo hiểm ô nhiễm hiện tại có mức độ rủi ro hạn chế, tỷ lệ phí bảo hiểm cao và tỷ lệ tổn thất thấp, khiến chúng trở nên không hấp dẫn đối với doanh nghiệp sản xuất gây ô nhiễm… Do vậy, để triển khai thị trường bảo hiểm TNBTTHDGONMT hiệu quả, việc đánh giá thuận lợi, khó khăn, những nội dung phù hợp với điều kiện phát triển, hoàn cảnh thực tế là rất quan trọng, góp phần phát triển sản phẩm bảo hiểm này tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp
Thứ nhất, xác định rõ điều kiện và tính chất bắt buộc, tự nguyện của bảo hiểm ô nhiễm môi trường trong từng lĩnh vực cụ thể được quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm với các đạo luật về tài nguyên và môi trường có liên quan như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản… và các đạo luật chung khác như: Bộ luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp... Hiện nay, Điều 8 Luật Kinh doanh bảo hiểm, Điều 167 Luật Bảo vệ môi trường 2014, Điều 173 Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) không đề cập đến trường hợp nào liên quan đến bảo hiểm ô nhiễm môi trường là bảo hiểm bắt buộc trong các lĩnh vực cụ thể. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 cũng chỉ quy định mang tính chất khuyến khích và tự nguyện, cụ thể khoản 3 Điều 167 quy định: “Tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây thiệt hại lớn cho môi trường phải mua bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường theo quy định của Chính phủ” nhưng lại không làm rõ như thế nào là lĩnh vực kinh doanh có nguy cơ gây thiệt hại lớn cho môi trường. Nhiều doanh nghiệp gây ô nhiễm chính là các doanh nghiệp nhà nước, những doanh nghiệp có thể dựa vào sự hỗ trợ và bảo vệ của Chính phủ và do đó có ít động cơ để tự bảo vệ mình bằng cách mua bảo hiểm. Một số doanh nghiệp công nghiệp quy mô lớn lại luôn có tâm lý cho rằng có cơ sở kinh tế vững chắc đủ để giải quyết bồi thường cho các sự cố môi trường và xem bảo hiểm ô nhiễm như một chi phí không cần thiết. Còn các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa thì lại luôn muốn cắt giảm chi phí để cạnh tranh nên không bao giờ quan tâm đến bảo hiểm ô nhiễm. Điều này gây tâm lý coi thường và ỷ lại, không quan tâm đến những thiệt hại về môi trường của doanh nghiệp. Cách quy định chung chung này chỉ mang tính chất hình thức và áp dụng máy móc nên trên thực tế việc thực thi lại phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan thi hành. Vì vậy, cần nghiên cứu, công bố về tác động của các chất thải có thể gây ô nhiễm môi trường và thể chế hóa thành pháp luật bảo hiểm bắt buộc đối với doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh có có nguy cơ xả thải các chất này.
Thứ hai, những quy định về xác định thiệt hại được yêu cầu bồi thường của sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm ô nhiễm mới chỉ được nhắc đến gián tiếp trong Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và khoản 1 Điều 32 Nghị định số 19/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường 2014. Thế nhưng doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải bồi thường như thế nào, cơ chế cụ thể để người bị thiệt hại có thể yêu cầu bồi thường, thiệt hại được bồi thường là những thiệt hại nào… thì lại chưa được quy định chi tiết, rõ ràng. Nếu không có chế định hay đạo luật đặc thù điều chỉnh về vấn đề này thì rõ ràng những quy định về bảo hiểm trách nhiệm dân sự nói chung và bảo hiểm TNBTTHDGONMT của doanh nghiệp nói riêng mới chỉ trên văn bản, khó thực thi trên thực tế. Các tranh chấp liên quan đến giới hạn trách nhiệm bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm… xảy ra là tất yếu dẫn đến tâm lý lo ngại của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm khi lựa chọn cung cấp sản phẩm bảo hiểm này ra thị trường. Chẳng hạn:
- Đối với khái niệm suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường. Khoản 1 Điều 165 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đưa ra 03 cấp độ khác nhau của thiệt hại do ô nhiễm môi trường như có suy giảm, suy giảm nghiêm trọng, suy giảm đặc biệt nghiêm trọng và căn cứ vào mức độ ô nhiễm để xác định mức độ suy thoái môi trường nhưng các quy định này vẫn thiếu tính cụ thể và việc quy định thành nhiều cấp độ như trên gây khó khăn, tốn kém cho việc xác định thiệt hại cũng như giải quyết việc bồi thường thiệt hại. Theo quan điểm của tác giả, không nên quy định thành 03 mức độ suy thoái môi trường như pháp luật hiện hành mà chỉ nên quy định ở hai mức độ là nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Điều đó sẽ giúp cho việc bồi thường thiệt hại mang tính khả thi hơn. Mặt khác, có những trường hợp mức độ thiệt hại không đáng kể, việc xác định thiệt hại đối với môi trường, cũng như việc giải quyết bồi thường thiệt hại chỉ làm gia tăng sự bất hợp lý giữa lợi ích xã hội cần phải được bảo vệ với chi phí xã hội phải bỏ ra để bảo vệ lợi ích đó[1];
- Về xác định thành phần môi trường bị thiệt hại: Cần quy định cụ thể về các thành phần môi trường và thành phần nào có thể xác định được thiệt hại cùng với phương pháp xác định thiệt hại áp dụng với từng thành phần môi trường đó như thành phần môi trường nước, môi trường đất, hệ sinh thái, thậm chí là thành phần môi trường không khí là những thành phần môi trường có thể xác định được thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra dựa trên những phương pháp phù hợp. Hơn nữa, cũng cần có sự tính toán và nghiên cứu kỹ lưỡng đối với những thành phần môi trường không dễ dàng xác định được thiệt hại, ví dụ như không khí, âm thanh, ánh sáng…
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác thu thập và sử dụng dữ liệu về tài nguyên môi trường, những biến đổi về thành phần môi trường tạo cơ sở cho việc xác định ô nhiễm môi trường.
Thứ ba, Luật Bảo vệ môi trường và Luật Kinh doanh bảo hiểm[2] có quy định về việc giám định tổn thất bảo hiểm, nhưng chưa quy định rõ cơ quan, tổ chức nào được thực hiện chức năng này. Hơn nữa, những quy định về nguyên tắc, quy trình, thù lao giám định, xác định hiện trạng, nguyên nhân, mức độ tổn thất, tính toán phân bổ trách nhiệm bồi thường tổn thất, làm cơ sở giải quyết bồi thường bảo hiểm như thế nào cũng là những khoảng trống trong quy định của pháp luật. Khi có thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra, vấn đề được các cơ quan chức năng đặt ra trong trường hợp này là cơ sở kinh doanh đã xả thải các chất vượt quá quy chuẩn cho phép ra môi trường chưa? Các chất thải này gây thiệt hại cho môi trường là bao nhiêu? Xác định khối lượng, nồng độ các chất thải trên 1m
3 nước thải chưa qua xử lý là bao nhiêu? Giám định thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng hay suy giảm chức năng, tính hữu ích đối với môi trường là như thế nào… Để giải quyết được vấn đề này, đều cần phải thực hiện thông qua hoạt động kiểm tra và giám định. Nếu giám định không đúng sẽ ảnh hưởng đến việc xác định có sự kiện bảo hiểm xảy ra và các loại thiệt hại phát sinh là căn cứ để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người bị thiệt hại. Vì pháp luật quy định chưa rõ ràng về thầm quyền của các tổ chức này nên nếu xảy ra trường hợp tổ chức giám định của nhà nước cho kết quả giám định là có sự kiện bảo hiểm nhưng doanh nghiệp bảo hiểm vẫn từ chối chi trả vì tổ chức giám định mà doanh nghiệp bảo hiểm lựa chọn lại có kết quả giám định mâu thuẫn. Vì vậy, cần bổ sung những quy định cụ thể đối với hoạt động giám định trong kinh doanh bảo hiểm môi trường như cơ quan nào có thẩm quyền, nhiệm vụ trong việc giám định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra; phân biệt giữa thẩm quyền giám định thiệt hại và thẩm quyền xác định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường... Hơn nữa, việc quy định cho các bên bình đẳng và tự nguyện trong việc chọn tổ chức giám định là rất hợp lý, nhưng tự do, tự nguyện thỏa thuận này ở mức độ nào thì pháp luật chưa quy định, do đó vấn đề này cần được bổ sung trong thời gian tới.
Theo quan điểm tác giả, nên quy định theo hướng xã hội hóa hoạt động giám định. Không chỉ các trung tâm của Nhà nước mới được tham gia vào quá trình giám định thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra mà các tổ chức phi Nhà nước cũng có thể tham gia vào quá trình này trên cơ sở những điều kiện, tiêu chuẩn, quy chuẩn do Nhà nước quy định để đảm bảo sự công bằng, khách quan.
Thứ tư, cần làm rõ và bổ sung những quy định bồi thường thiệt hại về tinh thần trong danh mục các khoản tiền mà người bị thiệt hại từ sự kiện ô nhiễm môi trường được doanh nghiệp bảo hiểm chi trả. Quy định về những thiệt hại được bồi thường bao gồm cả thiệt hại về tinh thần đã được thể hiện rõ trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong các vụ việc gây ô nhiễm môi trường thời gian gần đây, thì mức độ và tính nghiêm trọng của thiệt hại không chỉ là các giá trị vật chất mà còn ảnh hưởng rất lớn tới tinh thần của những người dân sống trong khu vực ô nhiễm. Việc bồi thường thiệt hại vật chất chỉ khôi phục được một phần rất nhỏ so với giá trị xã hội đã mất đi và ảnh hưởng tinh thần để lại cho người bị thiệt hại cùng những người thân của họ còn rất lâu sau đó.
Thứ năm, về tiêu chí để xác định trách nhiệm liên đới và riêng rẽ giữa các doanh nghiệp gây ô nhiễm khi hai hay nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một khu vực địa phương đều xả nước thải ra một dòng sông chạy quanh địa phương đó. Trên thực tế, nếu xác định đây là trách nhiệm riêng rẽ thì sẽ gây khó khăn cho cơ quan giám định khi xác định thiệt hại gây ra cho môi trường của từng doanh nghiệp gây ra là bao nhiêu khi họ chỉ có thể tính toán được thiệt hại thực tế là tổng các thiệt hại về môi trường tại địa phương đó. Vậy thì có thể ràng buộc trách nhiệm liên đới của hai chủ thể này để bảo vệ tối đa lợi ích của người bị thiệt hại hay không trong khi để xác định trách nhiệm liên đới theo quy định của pháp luật dân sự nói chung thì phải đảm bảo điều kiện là nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ chỉ phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường khi giữa họ cùng thống nhất ý chí về hành vi, hậu quả, cả hành vi lẫn hậu quả. Vậy đối với thiệt hại ô nhiễm môi trường thì có quy định ngoại lệ không? Việc xác định là trách nhiệm riêng rẽ hay liên đới sẽ quyết định việc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là riêng rẽ hay liên đới? Hơn nữa, nếu trong hai doanh nghiệp, có doanh nghiệp mua bảo hiểm ô nhiễm và có doanh nghiệp không mua thì cơ chế giải quyết trách nhiệm bồi thường sẽ như thế nào? Tất cả những quy định về vấn đề này đều còn bị bỏ trống và gây ra một lỗ hổng cho thực tiễn giải quyết các vụ việc liên quan đến bảo hiểm bồi thường ô nhiễm môi trường trên thực tế.
Thứ sáu, về chủ thể có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bảo hiểm TNBTTHDGONMT: Điều 53 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định người thứ ba (được hiểu là người bị thiệt hại) nói chung không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Với quy định này nếu doanh nghiệp sản xuất gây ô nhiễm thiện chí bồi thường thì họ sẽ làm những thủ tục cần thiết để yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả, nhưng nếu họ không thiện chí, hợp tác thì chắc chắn người bị thiệt hại gặp rất nhiều khó khăn về thời gian và thủ tục chi trả tiền bảo hiểm ô nhiễm. Điều này lại dẫn đến những chi phí xã hội phát sinh như tiền đi lại nhiều lần của người bị thiệt hại, tiền ăn ở trong thời gian chờ doanh nghiệp gây ô nhiễm yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả đã tạo ra những rào cản khiến cho người bị thiệt hại luôn có xu thế bỏ cuộc và có tư duy “con kiến mà kiện củ khoai”.
Trách nhiệm bồi thường ô nhiễm môi trường là một loại trách nhiệm đặc thù và người bị thiệt hại thường là nhóm đông dân cư, thiệt hại xảy ra từ hành vi gây ô nhiễm thường tác động trên diện tích rộng nên rất cần Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Bảo vệ môi trường có những quy định riêng về cơ chế và thủ tục tố tụng rút gọn, mở rộng phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường trách nhiệm ô nhiễm từ phía doanh nghiệp gây ô nhiễm và doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ bảy, xây dựng và ban hành quy trình và thủ tục áp dụng cơ chế khởi kiện tập thể trong các tranh chấp yêu cầu bảo hiểm trách nhiệm BTTHDGONMT. Điều này giúp cho những người bị thiệt hại có điều kiện tập hợp các nguồn lực cần thiết theo đuổi vụ kiện.
Thứ tám, liên quan đến quy định về nghĩa vụ chứng minh trong các tranh chấp yêu cầu bảo hiểm TNBTTHDGONMT của doanh nghiệp, pháp luật nên bổ sung những quy định tạo sự liên thông giữa việc áp dụng các chế tài xử phạt vi phạm hành chính, các chế tài xử lý hình sự với việc giải quyết yêu cầu chi trả bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường. Tức là khi các quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự về hành vi gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp được công bố công khai thì các phán quyết này phải được thừa nhận một cách mặc nhiên như là một chứng cứ về sự tồn tại của hành vi gây thiệt hại của doanh nghiệp mà người bị thiệt hại không cần phải chứng minh tính hợp pháp của các chứng cứ đó trong các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại, giảm tải gánh nặng chứng minh cho người bị thiệt hại. Theo đó, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm sẽ có trách nhiệm chi trả số tiền bảo hiểm do sự kiện được bảo hiểm xảy ra cho những người bị thiệt hại. Quy định này phải được chi tiết, rõ ràng, cụ thể, không chung chung như hiện nay để tránh tình trạng các thẩm phán xét xử khác nhau tại hệ thống các Tòa án.
Trong các trường hợp khác, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định người nào có đơn yêu cầu thì người đó phải có nghĩa vụ chứng minh và người nào phản bác yêu cầu thì cũng phải chứng minh ngược lại trừ trường hợp liên quan đến bồi thường cho người tiêu dùng và người lao động (Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015). Theo tác giả, đối với thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra nên nghiên cứu sửa đổi các quy định về nghĩa vụ chứng minh của người khởi kiện theo hướng người khởi kiện bồi thường thiệt hại do ô nhiễm suy thoái môi trường không có nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm và lỗi của người gây ô nhiễm, người bị kiện có nghĩa vụ chứng minh để phản bác mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật về môi trường và thiệt hại của người khởi kiện. Bởi vì, thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường xảy ra là rất lớn và đặc biệt phức tạp nên đây luôn là một trong những công việc khó khăn nhất mà người bị thiệt hại bằng mắt thường không có khả năng và trình độ để giám định được những nguyên nhân và giá trị của thiệt hại.
Thứ chín, quy định về thời hiệu khởi kiện nói chung tại Điều 588 Bộ luật Dân sự năm 2015 không phù hợp để áp dụng đối với các vụ kiện yêu cầu bảo hiểm TNBTTHDGONMT, bởi đây là một loại trách nhiệm đặc thù, vì vậy cũng cần có sự thay đổi, bổ sung sao cho thống nhất với các văn bản pháp luật chuyên ngành. Mặc dù, Điều 184 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 đã có sự thay đổi theo hướng việc áp dụng thời hiệu này sẽ không tự động phát sinh mà chỉ được áp dụng nếu như có yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên và yêu cầu phải được đưa ra trước khi Tòa án đưa ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Điều này trên thực tế được hiểu là Tòa án sẽ không được từ chối thụ lý vụ việc vì đã hết thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, khi đã hết thời hiệu, bên doanh nghiệp gây thiệt hại ô nhiễm và bên doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm vẫn có thể đưa ra yêu cầu này để từ chối bồi thường. Vì thế, quy định về thời hiệu giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo hiểm TNBTTHDGONMT vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần sửa đổi như: (i) Khoảng thời hiệu này quá ngắn và không hợp lý cho chế định bồi thường đặc thù này ở Việt Nam; (ii) Cách quy định này cũng không làm rõ được thời hiệu trong trường hợp thiệt hại tiềm ẩn, gây hại cho cơ thể con người nhưng phải mất một thời gian tích tụ nhìn thấy thiệt hại thực tế khiến nạn nhân chưa thể nhận biết ngay được; (iii) Không có quy định cụ thể xác định thời điểm biết hoặc phải biết quyền và lợi ích bị xâm phạm của người bị thiệt hại; (iv) Phụ thuộc vào thỏa thuận bảo hiểm giữa doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và doanh nghiệp gây ô nhiễm...
Thứ mười, các phương thức giải quyết yêu cầu bảo hiểm bồi thường thiệt hại về môi trường cần được quy định mở để linh hoạt hiệu quả không chỉ là ba phương thức làm hạn chế sự lựa chọn như sự thỏa thuận của các bên như trọng tài, khởi kiện tại Tòa án, mà còn có các phương thức khác như trung gian, hòa giải hoặc phương thức mới trong giải quyết tranh chấp là tiến trình cộng tác; quy định chi tiết về trình tự thủ tục, thẩm quyền quy trình thành lập của những phương thức này, tránh tình trạng chung chung, mâu thuẫn như hiện nay.
TS. Nguyễn Minh Thư
Khoa Luật, Đại học Ngoại Thương
[1]. Vũ Thu Hạnh, Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3 (40) năm 2007.
[2]. Khoản 25 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm, Điều 166 Luật Bảo vệ môi trường 2014, Điều 172 Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.