Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) là việc đưa nội dung sửa đổi, bổ sung trong văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản đã được ban hành trước đó vào văn bản được sửa đổi, bổ sung theo quy trình, kỹ thuật quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012. Hàng năm, các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương ban hành khoảng gần 1.000 văn bản QPPL
1, trong đó có khoảng hơn 100 văn bản sửa đổi, bổ sung (cần hợp nhất), thậm chí, có văn bản QPPL được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Bộ Tư pháp và các bộ, ngành đã tổ chức thực hiện hợp nhất văn bản bảo đảm theo quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012. Vai trò của công tác hợp nhất văn bản đã được nêu rõ tại Điều 168 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020): “Văn bản QPPL sửa đổi, bổ sung phải được hợp nhất với văn bản QPPL được sửa đổi, bổ sung nhằm góp phần bảo đảm hệ thống pháp luật đơn giản, rõ ràng, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật”. Việc thực hiện hợp nhất các văn bản là hết sức cần thiết, góp phần tạo bước chuyển biến mới về chất của hệ thống pháp luật, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Tuy nhiên, thực tế triển khai công tác này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện của công tác này. Trong bài viết này, các tác giả xin chia sẻ, trao đổi và đề xuất hướng xử lý, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hợp nhất văn bản QPPL.
1. Quy định pháp luật về hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật
Hiện nay, các văn bản QPPL về hợp nhất văn bản QPPL bao gồm:
- Pháp lệnh Hợp nhất văn bản QPPL năm 2012: Gồm 04 chương và 20 điều, có phụ lục kèm theo, quy định cụ thể các vấn đề liên quan đến việc hợp nhất văn bản, bao gồm thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan trong việc hợp nhất văn bản, trình tự, kỹ thuật hợp nhất văn bản. Việc hợp nhất văn bản cần phải bảo đảm kịp thời, chính xác, có độ tin cậy để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tra cứu, sử dụng chính thức trong áp dụng và thi hành pháp luật. Vì vậy, Pháp lệnh quy định việc hợp nhất phải bảo đảm tuân thủ trình tự, thủ tục, kỹ thuật và thời hạn chặt chẽ để kiểm soát được tính chính xác cao nhất của văn bản hợp nhất. Bên cạnh đó, có nhiều loại văn bản phải được hợp nhất và việc hợp nhất do nhiều cơ quan nhà nước thực hiện nên rất cần phải nhất quán về kỹ thuật hợp nhất văn bản để thuận lợi cho việc theo dõi và sử dụng văn bản hợp nhất. Do vậy, khi thực hiện việc hợp nhất văn bản, các cơ quan cũng phải bảo đảm tuân thủ đúng trình tự và kỹ thuật hợp nhất.
- Thông tư liên tịch số 192/2013/TTLT-BTC-BTP ngày 13/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng, quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác hợp nhất văn bản QPPL và pháp điển hệ thống QPPL (Thông tư liên tịch số 192/2013/TTLT-BTC-BTP).
Về cơ bản, Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 đã quy định đầy đủ về nguyên tắc, thẩm quyền, thời hạn và kỹ thuật thực hiện hợp nhất văn bản QPPL. Thực hiện quy định tại Thông tư liên tịch số 192/2013/TTLT-BTC-BTP, hầu hết các cơ quan đã bố trí kinh phí nhất định cho công tác hợp nhất văn bản QPPL. Như vậy, có thể nói, công tác hợp nhất văn bản được thực hiện trực tiếp theo một văn bản là Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012.
2. Tình hình tổ chức triển khai thực hiện công tác hợp nhất văn bản
Khoản 1 Điều 19 Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 quy định: “Trong thời hạn 02 năm, kể từ ngày Pháp lệnh này có hiệu lực, các văn bản được ban hành trước ngày Pháp lệnh này có hiệu lực phải được hợp nhất và đăng trên Công báo điện tử và trang thông tin điện tử của cơ quan quy định tại khoản 1 Điều 8 của Pháp lệnh này”. Trong hai năm 2013 và 2014, các bộ, ngành đã hoàn thành việc hợp nhất đối với các văn bản QPPL sửa đổi, bổ sung được ban hành trước năm 2012.
Đối với các văn bản sửa đổi, bổ sung ban hành từ năm 2012 đến nay cơ bản được các bộ, ngành thực hiện hợp nhất bảo đảm chất lượng, hiệu quả, kịp thời. Công tác hợp nhất văn bản đã được các bộ, ngành quan tâm, tổ chức thực hiện hợp nhất bảo đảm kỹ thuật và thời hạn theo quy định. Hàng năm, nhiều bộ, ngành đã quan tâm, chủ động đưa vào chương trình, kế hoạch công tác các nội dung hoạt động liên quan đến công tác hợp nhất văn bản QPPL nhằm tổ chức hiệu quả, kịp thời việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL. Đồng thời, nhiều bộ, ngành còn làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của Pháp lệnh; tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị chuyên môn trực thuộc; chuẩn bị các điều kiện bảo đảm cần thiết (như nhân sự, kinh phí...) để thực hiện hợp nhất văn bản QPPL.
Qua theo dõi, quản lý nhà nước về công tác hợp nhất văn bản QPPL cho thấy, hầu hết các cơ quan đều giao cho tổ chức pháp chế là đơn vị đầu mối tổ chức triển khai công tác hợp nhất văn bản QPPL (theo dõi, đôn đốc các đơn vị chuyên môn trực thuộc cơ quan mình trong việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL; xử lý sai sót trong văn bản hợp nhất; hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện hợp nhất văn bản QPPL...). Việc trực tiếp thực hiện hợp nhất đối với các văn bản QPPL cụ thể được tổ chức theo 02 nhóm mô hình: (i) Các đơn vị chuyên môn trực thuộc đã chủ trì xây dựng, soạn thảo văn bản QPPL được sửa đổi, bổ sung sẽ trực tiếp thực hiện hợp nhất văn bản QPPL, sau đó xin ý kiến của tổ chức pháp chế. Đây cũng là mô hình tổ chức thực hiện hợp nhất văn bản QPPL được đa số cơ quan lựa chọn; (ii) Tổ chức pháp chế chủ trì thực hiện hợp nhất, sau đó lấy ý kiến của các đơn vị có liên quan. Bên cạnh đó, một số cơ quan đã xây dựng được quy trình hợp nhất văn bản QPPL, trong đó phân công trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trực thuộc trong quá trình thực hiện hợp nhất văn bản QPPL.
Từ quá trình theo dõi, đôn đốc, hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp đối với các bộ, ngành và tình hình, kết quả thực hiện hợp nhất văn bản QPPL trong thời gian qua cho thấy, hầu hết các bộ, ngành đã thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung và kỹ thuật hợp nhất được quy định tại Pháp lệnh, cơ bản đáp ứng yêu cầu về tổ chức thực hiện thường xuyên việc hợp nhất các văn bản QPPL. Các bộ, ngành đã tổ chức thực hiện cơ bản đầy đủ các văn bản QPPL cần hợp nhất, thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL theo đúng thẩm quyền, thời hạn và trình tự, thủ tục quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012. Cụ thể, quy trình hợp nhất văn bản gồm các bước cơ bản như sau:
Bước 1: Tiến hành hợp nhất theo kỹ thuật hợp nhất được quy định tại Pháp lệnh và gửi dự thảo văn bản hợp nhất để xin ý kiến;
Bước 2: Kiểm tra tính chính xác về nội dung và kỹ thuật hợp nhất;
Bước 3: Chỉnh lý dự thảo văn bản hợp nhất;
Bước 4: Ký xác thực văn bản hợp nhất;
Bước 5: Đăng tải văn bản hợp nhất trên Công báo và trang thông tin điện tử.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 13 Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/5/2015 của Chính phủ về Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật quy định: “Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và thủ trưởng cơ quan nhà nước khác ở Trung ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cập nhật văn bản hợp nhất thuộc thẩm quyền hợp nhất theo quy định của Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và thủ trưởng cơ quan nhà nước khác ở Trung ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cập nhật văn bản hợp nhất của Quốc hội do mình chủ trì soạn thảo”. Như vậy, ngoài Công báo và trang thông tin điện tử, văn bản hợp nhất phải được đăng tải trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật theo quy định nhằm tạo thuận lợi trong việc tra cứu, sử dụng văn bản hợp nhất (trừ những văn bản hợp nhất có nội dung thuộc bí mật nhà nước).
Bộ Tư pháp với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về công tác hợp nhất văn bản đã rất chủ động, tích cực đẩy mạnh chất lượng, tiến độ của công tác này. Bộ Tư pháp đã theo dõi sát sao, nắm bắt đầy đủ thông tin và kịp thời hướng dẫn, đôn đốc về tình hình triển khai công tác hợp nhất của các bộ, ngành. Nhiều bộ, ngành khi gặp vấn đề khó khăn, vướng mắc về kỹ thuật thực hiện hợp nhất đã phản ánh trực tiếp về Bộ Tư pháp để trao đổi, tìm giải pháp tháo gỡ nhằm bảo đảm chất lượng thực hiện hợp nhất văn bản QPPL.
Về cơ bản, các tổ chức, cá nhân đã thường xuyên sử dụng văn bản hợp nhất thay vì tra cứu qua các văn bản riêng lẻ, các văn bản sửa đổi, bổ sung, qua đó, góp phần làm giảm chi phí tuân thủ pháp luật nói riêng và góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
3. Một số tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp
Bên cạnh những kết quả đạt được, sau gần 10 năm triển khai thực hiện Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012
, công tác hợp nhất văn bản cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế gây khó khăn trong việc quản lý, tra cứu, áp dụng các quy định của pháp luật; gây tốn kém, lãng phí nguồn lực cho công tác hợp nhất văn bản QPPL. Cụ thể:
- Về phân công, bố trí nhân sự, biên chế: Hầu hết, các cơ quan đã có sự sắp xếp, bố trí về nhân sự, biên chế để thực hiện công tác hợp nhất văn bản QPPL. Tuy nhiên, số lượng nhân sự, biên chế được giao thực hiện công tác này nhìn chung còn thiếu, chưa có nhiều kinh nghiệm; trình độ chuyên môn chưa đồng đều, hầu hết là kiêm nhiệm, chưa có biên chế chuyên trách, dẫn đến khó ổn định và tập trung sâu vào chuyên môn, nghiệp vụ, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ, chất lượng kết quả thực hiện công tác hợp nhất văn bản QPPL.
- Về bố trí kinh phí: Kinh phí dành cho việc triển khai công tác hợp nhất văn bản QPPL tại một số cơ quan vẫn còn thấp, chưa tương xứng với khối lượng công việc được giao, thậm chí một số cơ quan chưa thực sự chủ động bố trí về kinh phí thực hiện công tác hợp nhất văn bản QPPL
- Về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn với đơn vị được giao làm đầu mối, tổ chức pháp chế tại các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL: Về cơ bản, công tác phối hợp giữa các đơn vị được quan tâm, thực hiện tốt. Tuy nhiên, tại một số cơ quan, nhận thức về trách nhiệm thực hiện công tác hợp nhất văn bản QPPL của các đơn vị chuyên môn còn chưa đầy đủ, có đơn vị vẫn coi đây là nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức pháp chế nên chưa chủ động trong việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chuyên môn với tổ chức pháp chế dẫn đến tiến độ và chất lượng thực hiện hợp nhất văn bản QPPL chưa bảo đảm.
- Về việc gửi văn bản hợp nhất để đăng tải: Việc đăng tải văn bản hợp nhất trên Công báo, trang thông tin điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật đã được nhiều cơ quan thực hiện. Tuy nhiên, việc đăng tải văn bản hợp nhất đôi khi còn chưa đầy đủ, chưa đúng thời hạn theo yêu cầu, ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp cận, sử dụng văn bản hợp nhất của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
-
Về việc khai thác, sử dụng của văn bản hợp nhất: Việc khai thác, sử dụng văn bản hợp nhất trong thực tiễn còn hạn chế do các cơ quan chưa phổ biến, hướng dẫn cụ thể về giá trị sử dụng của văn bản hợp nhất đối với các đơn vị trực thuộc, các cơ quan, đơn vị, đối tượng liên quan khác.
- Về giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất: Văn bản hợp nhất theo Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 không phải là văn bản QPPL nên không có giá trị pháp lý trong áp dụng và thi hành pháp luật. Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 quy định: “Hợp nhất văn bản là việc đưa nội dung sửa đổi, bổ sung trong văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản đã được ban hành trước đó vào văn bản được sửa đổi, bổ sung” (Điều 2). Do đó, văn bản hợp nhất hiện nay như là bản sao, bản chụp đối với văn bản đã có nên không có giá trị tự thân mà có giá trị phụ thuộc. Cụ thể, Điều 9 Pháp lệnh quy định: “Trong trường hợp do sai sót về kỹ thuật dẫn đến nội dung của văn bản hợp nhất khác với nội dung của văn bản được hợp nhất thì áp dụng các quy định của văn bản được hợp nhất”. Do đó, văn bản hợp nhất theo Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 cũng không quy định cơ quan/người ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung đồng thời là cơ quan/người ký ban hành văn bản hợp nhất mà giao cho cơ quan chủ trì soạn thảo (thường là cơ quan cấp dưới). Ví dụ: Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện hợp nhất văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành; Văn phòng Quốc hội thực hiện hợp nhất văn bản do Quốc hội ban hành.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, các cá nhân, tổ chức chủ yếu sử dụng văn bản hợp nhất trong tra cứu, tham khảo mà chưa thực sự sử dụng trong áp dụng và thi hành pháp luật một cách trực tiếp; nguyên nhân chủ yếu có thể xác định là do văn bản hợp nhất không phải là văn bản QPPL và không có giá trị pháp lý như văn bản QPPL. Việc hợp nhất văn bản bắt nguồn từ việc tồn tại hình thức “sửa đổi, bổ sung” văn bản. Theo đó, thời gian qua, cơ quan nhà nước ban hành văn bản QPPL, ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung và sau đó là ban hành văn bản hợp nhất. Như vậy, cách thức này làm gia tăng số lượng văn bản QPPL, phát sinh thêm loại văn bản (văn bản hợp nhất). Việc hợp nhất văn bản góp phần bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống văn bản QPPL nhưng lại chưa thực sự giải quyết triệt để được vấn đề (văn bản hợp nhất không phải là văn bản QPPL và không có giá trị pháp lý như văn bản QPPL).
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước, văn bản hợp nhất được cơ quan/người có thẩm quyền ký cùng với văn bản sửa đổi, bổ sung. Khi đó, văn bản hợp nhất có giá trị pháp lý như văn bản gốc nên đáp ứng được tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật; không làm cồng kềnh thêm hệ thống pháp luật… Cũng xuất phát từ góc độ văn bản hợp nhất không phải là văn bản QPPL nên không có giá trị trong áp dụng và thi hành pháp luật nên thời gian qua, các cá nhân, tổ chức rất ít sử dụng văn bản hợp nhất trong giải quyết công việc của mình mà chủ yếu vẫn sử dụng văn bản gốc (văn bản sửa đổi, bổ sung).
- Về thể chế liên quan đến công tác thực hiện hợp nhất văn bản QPPL: Nhiều quy định về kỹ thuật hợp nhất tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 còn chưa rõ ràng nên thời gian qua nhiều trường hợp phát sinh liên quan đến kỹ thuật hợp nhất cần có quy định để điều chỉnh, thực hiện thống nhất như:
+ Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 chưa có quy định cụ thể việc lấy số, ký hiệu của văn bản hợp nhất. Qua nghiên cứu các quy định liên quan, Bộ Tư pháp đã có hướng dẫn các bộ, ngành thống nhất việc lấy số của văn bản hợp nhất theo số thứ tự của các văn bản hành chính của cơ quan ban hành trong năm (không theo số của văn bản QPPL vì văn bản hợp nhất không phải là văn bản QPPL). Tuy nhiên, do ký hiệu của văn bản hợp nhất không bao gồm thông tin về năm ký xác thực nên qua triển khai đã dẫn đến nhiều trường hợp các văn bản hợp nhất khác nhau nhưng trùng nhau về số, ký hiệu và quy định về cùng một lĩnh vực (do sau khi thực hiện hợp nhất lại ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung và lại tiến hành thực hiện hợp nhất, hoàn thành ký xác thực văn bản hợp nhất mới).
Xuất phát từ những hạn chế nêu trên, Bộ Tư pháp cần nghiên cứu cách thức thể hiện số, ký hiệu của văn bản hợp nhất theo hướng phù hợp nhất, cụ thể như nâng cao vai trò, vị trí của văn bản hợp nhất trong hệ thống các văn bản có tính pháp lý, góp phần nâng cao giá trị sử dụng của văn bản hợp nhất nói chung. Đến nay, phương án hợp lý nhất là việc lấy số của văn bản hợp nhất được thực hiện liên tiếp, không phụ thuộc vào năm ký xác thực; văn bản hợp nhất sẽ được đăng ký vào một sổ và có một hệ thống số riêng, độc lập với các văn bản hành chính thông thường khác xuất phát từ tính chất đặc biệt của văn bản hợp nhất (chứa các QPPL đã được hợp nhất).
+ Về thời hạn hoàn thành việc hợp nhất văn bản QPPL, Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 quy định
2:
Đối với văn bản của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội: Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội tổ chức thực hiện việc hợp nhất và ký xác thực văn bản hợp nhất chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày văn bản sửa đổi, bổ sung được công bố.
Đối với văn bản của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội: Người đứng đầu cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản được sửa đổi, bổ sung của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tổ chức thực hiện việc hợp nhất và ký xác thực văn bản hợp nhất chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản sửa đổi, bổ sung của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, văn bản sửa đổi, bổ sung văn bản liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Tổng Kiểm toán Nhà nước tổ chức thực hiện việc hợp nhất và ký xác thực văn bản hợp nhất đối với văn bản do mình ban hành, văn bản liên tịch do cơ quan mình chủ trì soạn thảo, chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày ký ban hành văn bản. Hầu hết, các cơ quan đều gặp khó khăn liên quan đến thời hạn hoàn thành việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL. Qua thực tiễn cho thấy, quy trình thực hiện việc hợp nhất văn bản QPPL trải qua nhiều giai đoạn, đồng thời hợp nhất văn bản QPPL cũng là công việc đòi hỏi sự chính xác, tỉ mỉ nên việc hoàn thành và bảo đảm yêu cầu về thời hạn thực hiện như quy định tại Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật hiện nay là tương đối khó khăn (đây cũng là kiến nghị, phản ánh chung của rất nhiều cơ quan). Để khắc phục, xử lý triệt để các hạn chế đã nêu, Bộ Tư pháp với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về công tác này cần nghiên cứu, hoàn thiện thể chế liên quan đến công tác hợp nhất văn bản QPPL là rất quan trọng và cần thiết.
Hiện nay, kỹ thuật hợp nhất theo Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012 còn nhiều điểm không phù hợp gây khó khăn cho việc tra cứu, áp dụng. Thậm chí, nhiều kỹ thuật hợp nhất không phù hợp dưới dạng văn bản điện tử (trên mạng internet) làm cho văn bản hợp nhất bị phức tạp hơn, khó sử dụng hơn và có thể gây nhầm lẫn trong cách hiểu của các quy định. Trong khi đó, thực tế hiện nay, các cá nhân, tổ chức chủ yếu sử dụng các văn bản điện tử trên môi trường mạng internet trong áp dụng và thi hành pháp luật.
Ngoài ra, cách hiểu về văn bản QPPL được hợp nhất chưa thực sự thống nhất; hợp nhất văn bản được sửa đổi, bổ sung nhiều lần về cùng một nội dung; hợp nhất nội dung được thay thế; hợp nhất văn bản có ban hành kèm theo quy chế, quy định, danh mục, biểu mẫu; cách thức ghi chú đối với những mẫu, phụ lục bị sửa đổi, bổ sung ban hành kèm theo văn bản sửa đổi, bổ sung; về việc sử dụng và trích dẫn văn bản hợp nhất; xử lý văn bản hợp nhất trong trường hợp các văn bản được hợp nhất hết hiệu lực thi hành; cách thức trình bày tên của văn bản hợp nhất lần thứ hai và những lần tiếp theo để tránh nhầm lẫn khi tra cứu; xử lý văn bản hợp nhất trong trường hợp các văn bản hợp nhất hết hiệu lực thi hành... Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc lúng túng trong thực hiện hợp nhất văn bản QPPL, ảnh hưởng đến chất lượng kết quả của việc thực hiện hợp nhất văn bản QPPL; gây khó khăn không nhỏ khi sử dụng văn bản hợp nhất trong áp dụng, thi hành pháp luật.
Hợp nhất văn bản là một hoạt động mang tính kỹ thuật trong quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Song, với vai trò và ý nghĩa của những sản phẩm là kết quả từ các hoạt động này đã cho thấy giá trị to lớn của công tác hợp nhất văn bản trong hoạt động xây dựng, hoàn thiện và thi hành pháp luật. Thực tế triển khai công tác hợp nhất văn bản thời gian qua cho thấy, những kết quả đáng khích lệ, đóng góp vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật và thi hành pháp luật trong thực tiễn. Thời gian tới, theo định hướng chung tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận của Bộ Chính trị về nghiên cứu xây dựng và thực hiện đồng bộ Chiến lược pháp luật Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, công tác hợp nhất văn bản QPPL cần được tiếp tục triển khai với các giải pháp sau:
- Tiếp tục củng cố về tổ chức, biên chế, bố trí các điều kiện bảo đảm cần thiết cho việc triển khai công tác hợp nhất văn bản QPPL (tổ chức, biên chế, nhân sự, kinh phí...).
- Tập trung bồi dưỡng, hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ cho công chức làm công tác hợp nhất văn bản QPPL của các bộ, ngành.
- Tổ chức thực hiện hợp nhất văn bản QPPL bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đúng thời hạn theo quy định.
Đồng thời, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành tập trung nghiên cứu khắc phục những hạn chế, tồn tại của công tác hợp nhất văn bản QPPL về cả lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp hoàn thiện thể chế về công tác hợp nhất văn bản QPPL, đặc biệt về giá trị pháp lý của văn bản hợp nhất nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác này trong thời gian tới
ThS. Trần Thanh Loan & Nguyễn Thị Việt Nga
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
1. Báo cáo tham luận của Bộ Tư pháp tại Hội nghị của Chính phủ về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế “Yêu cầu đặt ra đối với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế giai đoạn 2021 - 2026, định hướng đến năm 2030”: Giai đoạn 2016 - 2020, Chính phủ đã ban hành theo thẩm quyền 745 nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành 232 quyết định; các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành 2.422 thông tư và 110 thông tư liên tịch.
2. Các điều 5, 6, 7 Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012.